Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo


LỊCH SINH HOẠT SẮP TỚI

  • Khóa Lễ Chủ Nhật Hàng Tuần vào lúc 12pm.
  • Sám Hối:
            - Vào ngày Monday, 30 Tháng 12 Năm 2024 Âm Lịch: Lúc: 7:30 pm

    Các Ngày Lễ, Sám Hối và Bát Quan Trai khác:
    GIAO THỪA TẾT ẤT TỴ (TUESDAY NIGHT): Vào ngày:   Tuesday 28-01-2025 Âm Lịch:
    TẾT ẤT TỴ 2025 (WEDNESDAY): Vào ngày:   Wednesday 29-01-2025 Âm Lịch:


     BÀI HỌC CHO TUẦN NÀY
    (Phật Học Phổ Thông Khóa thứ III )

    KHỔ ÐẾ


    KHỔ - ÐẾ (DUKKHA) 

    A.      MỞ-ÐỀ: 

    ÐỜI LÀ MỘT BIỂN KHỔ ÐẦY MỒ HÔI VÀ NƯỚC MẮT 

                Có một số người cho rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng uổng.  Do đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những khoái-lạc vật-chất. 

                Nhưng họ không ngờ rằng những khoái-lạc ấy đều là giả dối, lừa-phỉnh, chẳng khác gì cái khoái-lạc mong-manh của người khát mà uống nước mặn, càng uống lại càng khát; và cổ họng, sau cái phút uống vào, lại thêm đắng chát. 

                Khế-kinh có câu: “Nước mắt chúng-sinh nhiều hơn nước biển”.  Thật thế!  Cõi đời không vui, cõi đời toàn là khổ.  Những nỗi vui, nếu có, cũng chỉ là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp sơn bên ngoài mà thôi; chứ bản-chất của cõi đời là đau khổ.  Cõi đời là một biển đầy mồ hôi và nước mắt, trong ấy chúng-sinh đang bơi lội, hụp lặn, chìm nổi, trôi lăn.  Ðó là sự thật.  Nhưng sự thật ấy, không ai nhìn thấy một cách tường tận và nói lên một cách rõ-ràng như đức Phật đã nói trong Khổ-đế, phần thứ nhất của Tứ-diệu-đế. 

    B.       CHÁNH-ÐỀ: 

    I.  ÐỊNH-NGHĨA CHỮ KHỔ-ÐẾ (DUKKHA) 

                Khổ-đế là do chữ Dukkha mà ra.  “DU”, nghĩa là khó; “KKHA” là chịu đựng, là kham nhẫn.  Dukkha nghĩa là khó chịu đựng, khó kham nhẫn, là đau khổ.  Tàu dịch là “khổ”, nghĩa là đắng; nghĩa rộng là những cái gì làm cho mình khó chịu, mình đau-đớn như: ốm đâu, đói khát, buồn rầu, sợ hãi v.v… 

                “ÐẾ” là một sự thật vững chắc, đúng-đắn, hoàn-toàn, cao hơn cả. 

                Khổ-đế, là sự thật đúng-đắn, vững chắc cao hơn cả về sự khổ ở thế-gian.  Sự thật nầy nó rõ-ràng, minh-bạch không ai có thể chối cãi được. 

                Dưới đây, chúng ta hãy nghe đức Phật giải bày một cách tường tận, sâu-sắc, tỉ-mỉ về sự khổ của thế-gian. 

    II.  LUẬN VỀ SỰ KHỔ CỦA THẾ-GIAN 

                Kể cho hết tất cả sự khổ ở thế-gian, thì không bao giờ cùng.  Song căn cứ theo kinh Phật, có thể phân loại ra làm ba thứ khổ (tam khổ) hay tám thứ khổ (bát khổ). 

                1.  BA KHỔ 

                Ba thứ khổ là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. 

                a)  Khổ khổ. 

                Cái khổ chồng chất lên cái khổ; bản thân đã khổ, mà hoàn-cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là “Khổ Khổ”.           

                Thật thế, mỗi một chúng-sinh, tự mình đã là nạn-nhân của bao nhiêu cái khổ, cái xấu-xa; thân-thể là một bầu thịt xương dơ bẩn, nếu một vài ngày không săn-sóc, rửa ráy, thì thối tha không thể chịu được.  Hơn nữa, cái thân ấy cũng không bền chắc, mà trái lại, rất mong-manh: khát nước độ ba ngày, ngạt thở độ năm phút, đứt một mạch máu, bị nhiểm một số vi-trùng độc… thế là mạng vong. 

                Lại trên cái khổ sống chết bất ngờ mà con người không làm chủ được, còn nhiều cái khổ khác nữa chồng chất, không sao tránh khỏi được như: bệnh tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu-cao thuế-nặng v.v…  Vì thế nên gọi là “Khổ Khổ”.    

                b)  Hoại khổ. 

                Trong Khế-kinh nói: “Phàm vật có hình tướng đều phải bị hoại diệt”.  Thực thế, vạn vật trong vũ-trụ đều bị luật vô-thường chi-phối, không tồn tại mãi được.  Cứng rắn như sắt đá, lâu năm cũng mục nát; to lớn như trái đất mặt trăng, mặt trời lâu ngày cũng tan rã.  Yếu ớt, nhỏ nhen như thân người, thì mạng sống lại càng ngắn ngủi, phù du!  Cái búa tàn-ác của thời-gian đập phá tất cả; mỗi phút mỗi giây ta sống, cũng là mỗi phút mỗi giây ta đang bị hủy hoại.  Và dù ta có sức mạnh bao nhiêu, quyền thế bao nhiêu, giàu có bao nhiêu cũng không thể cản ngăn, chống đỡ không cho thời-gian hủy diệt đời ta.  Ta hoàn-toàn bất lực trước thời-gian.  Thật là khổ sở, tủi nhục, đớn đau! 

                c)  Hành khổ 

                Về phương-diện vật-chất, ta bị ngoại cảnh, thời-gian chi-phối, phá hoại; còn về phương-diện tinh-thần, ta cũng không thể tự chủ, yên ổn, tự-do được.  Tâm-hồn ta thường bị dục-vọng dằn-vật, lôi kéo, thúc đẩy từng phút từng giây.  Tư-tưởng ta cũng luôn luôn biến chuyển nhảy vọt lăn-xăn từ chuyện này sang chuyện khác, như con ngựa không cương, như con vượn chuyền cây, không bao giờ dừng nghỉ.  Thật là đúng như lời Phật dạy: “tâm viên, ý mã”. 

                Nếu xét sâu-xa hơn nữa, ta sẽ thấy tâm-hồn ta còn bị cái phần bên trong sâu kín, nằm dưới ý-thức, là phần tiềm-thức chi-phối, sai sử một cách vô cùng mãnh liệt trong mỗi ý-nghĩ, cử chỉ hành-động của chúng ta.  Ta giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích thứ kia, phần nhiều là do tiềm-thức ta sai sử, ra mệnh lệnh. 

                Nói tóm lại, ta không được tự-do, ta bị chi-phối bởi những ý-tưởng, dục-vọng, tiềm-thức, và luôn luôn chịu mệnh lệnh của chúng.  Ðó là “Hành Khổ”. 

                2.  TÁM KHỔ 

                Nếu chúng ta phân-tích tỉ-mỉ hơn, thì cái khổ thế-gian có thể chia ra làm tám loại.  Tám loại này tựu trung cũng không ngoài ba khổ kia. 

                Tám loại khổ là: sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái-biệt-ly khổ, cầu-bất-đắc khổ, oán-tắng-hội khổ, ngũ-ấm-xí-thạnh khổ.  Dưới đây, chúng ta hãy nói rõ về tám mối khổ này. 

                a)  Sanh khổ:

                Sự sanh sống của con người có hai phần khổ: khổ trong lúc sanh, khổ trong đời sống. 

                - Khổ trong lúc sanh: 

    Người sanh và kẻ bị sanh đều khổ cả.  Khi người mẹ mới có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn oẹ, dã-dượi, bần-thần…  Thai mỗi ngày mỗi lớn, thì người mẹ mỗi ngày mỗi mệt mõi, nặng-nề, đi đứng khó-khăn, làm lụng chậm-chạp.  Ðến khi gần sanh, sự đau đớn của người mẹ không sao nói xiết.  Dầu được thuận thai đi nữa, mẹ cũng phải chịu dơ uế nhiều ngày, yếu đuối nhiều tháng, vì tinh-huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém.  Còn rủi bị nghịch thai, thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn nhiều nữa.  Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải chịu tật suốt đời. 

    Còn con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều điều khổ sở.  Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hảm trong khoảng tối tăm, chập hẹp, còn hơn cả lao tù.  Mẹ đói cơm, khát nước, thì con ở trong thai bào lỏng-bỏng như bong-bóng phập-phều.  Mẹ ăn no thì con bị ép như bồng-bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy.  Ðến kỳ sanh sản, thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bề, nên khi vừa thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang: “khổ a! khổ a!”.  Thật đúng như hai câu thơ của Ôn-Như-Hầu: 

    Thảo nào lúc mới chôn nhau

    Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra! 

                - Khổ trong đời sống: 

                            Về phương-diện vật-chất, hay tinh-thần, đời sống đều có nhiều điều khổ sở. 

    Về vật-chất, con người đòi hỏi những nhu-cầu thiết-yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men.  Muốn có những nhu cầu ấy, con người phải cần-lao kham khổ, đổ mồ-hôi, sôi nước mắt, mới mua được chén gạo, bát cơm, manh quần, tấm áo.  Về nhà ở, thì có khi suốt đời vất-vả làm lụng, vẫn không đủ sức tạo được một ngôi nhà nho nhỏ. 

    Nhưng chẳng phải đợi đến cảnh đói, khát, mới gọi là khổ; ăn uông thất thường, thiếu thốn cũng đã là khổ rồi.  Chẳng đợi phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, hay ăn lông ở lỗ mới gọi là khổ; áo quần không đủ ấm, nhà cửa không che được nắng mưa, cũng đã là khổ rồi.  Nhưng nào phải chỉ có những người nghèo hèn mới khổ đâu?  Người giàu có vẫn cứ khổ như thường: muốn có tiền, tất phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được, chứ đâu phải tiền bạc ở trên hư-không rơi xuống cho đâu!  Ðó là còn chưa nói đến những nỗi khổ vật-chất bất thường khác nữa mà không ai có thể tránh khỏi được. 

    Về phương-diện tinh-thần, đời người cũng có nhiều điều khổ nhục, có nhiều khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật-chất.  Không nói gì nhiều, chỉ xin đơn cử ở đây một thí-dụ về nỗi khổ trong sự học hỏi. 

    Muốn tìm lẽ phải, chơn-lý, đạo-đức, tất phải gia công học hỏi nhiều năm cả về phương-diện lý-thuyết lẫn thực-nghiệm.  Về lý-thuyết ta học trong sách vở, với thầy với bạn hay tự học.  Về thực-nghiệm, ta học giữa đời trong lúc tiếp-xú với mọi người.  Nhưng dù lý-thuyết hay thực-nghiệm ta cũng gặp lắm điều khổ sở, khó-khăn.  Như học lý-thuyết với thầy ở trường, lắm khi gặp bài khó, lại thêm thầy giảng dạy quá cao, học trò không thu nhận được gì hết, thế là người giận kẻ buồn, khổ tâm quá!  Còn tự học ở nhà với quyển sách trơn, có lúc gặp đoạn văn mắc mỏ, lại không đủ tài-liệu tra cứu thêm, bị bít lối ra, rồi khởi tâm tức giận buồn-phiền, cũng là khổ.  Về sự học thực-nghiệm ở đời, lắm khi cũng phải trả một giá rất đắc.  Ta sẽ bị người này phỉnh gạt, người kia áp bức, kẻ nọ oán thù, kẻ kia khinh bỉ… bao nhiêu hạng người là bấy nhiêu tâm tánh.  Và hiểu đời được một phần nào là ta đã phải chịu đựng biết bao nhục-nhã, khổ đau. 

                            Tóm lại, về vật-chất hay tinh-thần, sự sống mang theo nhiều cái khổ.  Sanh-khổ là thế. 

                b)  Lão khổ: 

                Ca dao có câu:

    Già nua là cảnh điêu tàn,

    Cây già cây cỗi, người già người si”. 

                Con người đến lúc già, thân-thể hao mòn, tinh-thần suy kém, nên khổ cả thể xác lẫn tinh-thần. 

                - Khổ thể-xác: 

    Càng già, khí huyết càng hao mòn.  Bên trong, ngũ tạng, lục phủ càng ngày càng mỏi mệt, hoạt-động một cách yếu ớt; bên ngoài các giác-quan dần dần hư-hoại, như mắt lờ, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi đớ, tay chân run rẫy, đi đứng khó-khăn, việc gì cũng nhờ-vã kẻ khác. 

    Ðã vậy, mỗi khi thời-tiết xoay trở thì cảm nhiễm theo khí-hậu mà đau, như trời mới nắng thì đã sốt, trời mới mưa thì đã rét v.v… không chút gì gọi là vui thú cả! 

                - Khổ tinh-thần:           

    Người xưa có câu: “Ða thọ, đa nhục”.  Thật thế, tuổi nhiều, nhục lắm!  Càng già, thân-thể càng suy kém, thì trí-tuệ càng lu mờ.  Do đó, sanh ra lẫn lộn, quên trước, mất sau, hành-động như kẻ ngây dại: ăn dơ, uống bẩn; nói năng giống người mất trí: ăn rồi bảo chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi; có khi lại còn chửi bới, nói nhảm-nhí làm trò cười cho lũ trẻ.  Thật đúng là “Lão Khổ”. 

                c)  Bệnh khổ: 

                Hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổ sở, không gì hơn là cái đau!  Ðã đau, bất luận là đau gì, từ cái đau lặt-vặt như đau răng, nhức đầu, đến cái đau trầm trọng nhưng phung, lao, đều làm cho con người phải rên xiết, khổ sở, khó chịu.  Nhất là những bệnh trầm-kha (lâu ngày khó chữa), thì lại càng hành hạ xác thân, đắng cơm, nghẹn nước, cầu sống không được, cầu chết cũng không, oan-oan, ương-ương, thật là khổ não. 

                Thân đã đau, mà tiền lại hết.  Có nhiều người sau một trận đau, chỉ còn hai bàn tay trắng!  Cho nên ngạn-ngữ có câu: “Không đau làm giàu biết mấy”. 

                Ngoài ra, bệnh tật lại còn làm cho lục thân quyến-thuộc buồn rầu, lo sợ.  Mỗi lần trong nhà có người đau, thì cả gia-quyến đều rộn-rịp, băn-khoăn ngồi đứng không yên, quên ăn quên ngủ, biếng nói, biếng cười, bỏ công ăn việc làm.  Thật đúng là “Bệnh Khổ”. 

                d)  Tử khổ: 

                Trong bốn hiện-tượng của vô-thường: sanh, già, bịnh, chết thì “chết” là cái làm cho chúng-sinh kinh hải nhất.  Con người sợ chết đến đổi ở trong hoàn-cảnh sống thừa, đáng lẽ không nên sống làm gì nữa, thế mà nghe nói đến cái chết, cũng sợ không dám nghĩ đến.  Những người xấu số bị bịnh nan y như ung-thư, bịnh hủi, sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống mà thôi. 

                Cái chết làm khổ con người như thế nào mà ai cũng sợ hãi thế?

                - Về thân xác: 

    Có mục-kích một người bệnh khi hấp-hối bị hành xác rồi mới biết cái chết là đáng sợ.  Người sắp chết, mệt ngột không ngằn, trợn mắt, méo miệng, giựt gân chuyển cốt, uốn mình, giăng tay, bẻ chân…  Trong lúc ấy tai hết nghe, mắt hết thấy, mũi hết thở, miệng hết nói.  Rờ thử vào người chết, thì thấy lạnh ngắt như đồng, thân cứng đơ như gỗ.  Xác chết dần dần sình lên trong rất ghê tởm; nếu để lâu ngày lại nứt ra, chảy nước tanh hôi khó chịu vô cùng. 

                - Về tinh-thần: 

    Khi sắp chết, tâm thần rối loạn, sợ hãi vô cùng: phần xót thương cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái từ đây đoạn tuyệt, phần lo cho mình một thân cô quạnh, bước sang thế-giới mịt-mù xa lạ.  Thật không còn gì đau khổ bằng phút chia ly vĩnh-viễn này! 

                Tóm lại, cái chết làm cho thân-thể tan rã, thần-thức theo nghiệp dẫn đi thọ sanh ở một cõi nào chưa rõ.  Thật là “Tứ Khổ”. 

                e)  Ái-biệt-ly khổ: 

                Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có gì đau đớn hơn.  Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt. 

                - Sanh-ly khổ: 

    Một gia-đình đang sống trong cảnh đầm ấm vui vầy, bỗng vì hoàn-cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình-lình xẩy đến, như giặc-giã, bão lụt v.v… làm cho mỗi người bơ vơ, thất lạc mỗi nơi: kẻ đầu này trông đợi, người góc kia nhớ chờ.  Thật đau lòng xót dạ!  Người đời thường nói: “Thà lìa tử, chứ ai nỡ lìa sanh ?”.                 

                - Tử-biệt khổ: 

    Nhưng, mặc dù xa cách nhau, người sống còn có ngày gặp gỡ; chứ chết rồi, bao thuở được sum vầy?  Vì vậy, đứng trước cảnh chết, là một sự biệt ly vĩnh-viễn, con người không ai là chẳng khổ đau.  Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu-rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có người đau đớn, tuyệt-vọng đến nỗi toan chết theo người quá cố.  Ðó là cái khổ của “Tử biệt”. 

                f)  Cầu-bất-đắc khổ (thất vọng):

                Người ta ở đời, hễ hy-vọng càng nhiều thì thất-vọng càng lớn.  Bất luận trong một vấn-đề gì, số người được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà kẻ thất bại, bất như ý thì không sao kể xiết.  Muốn được kết-quả tốt đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng-lực, hao tâm, tốn trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công.  Thế rồi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, sự khổ đau không biết đâu là bờ bến.  Dưới đây, xin nêu lên vài thí-dụ về những thất-vọng mà người đời thường gặp nhiều nhất: 

                - Thất-vọng vì công-danh: 

    Trong đời, danh-vọng thường là một miếng mồi ngon mà phần đông người đời ưa thích.  Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ giành giật được?  Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt, nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường-hợp những kẻ mong cầu danh-vọng một cách chính-đáng, bằng năng-lực, tài trí, học hỏi của mình.  Ðối với những hạng người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng may ra mới được thành công.  Thật đúng như Ôn-Như-Hầu Nguyễn-Gia-Thiều đã nói: 

    Gót danh-lợi, bùn pha sắc xám

    Mặt phong-trần nắng nám mùi dâu! 

                - Thất-vọng vì phú-quý: 

    Số người thất-vọng vì công-danh đã nhiều.  Nhưng số người thất-vọng vì phú-quý cũng không phải ít.  Muốn cho mau giàu, nhiều người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi mưu gian chước lận đổ bể ra, tài-sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia-quyến bị nhục-nhã theo, thực là khổ! 

                - Thất-vọng vì tình-duyên: 

    Tình-duyên cũng là một điều làm cho bao người phải điêu đứng, khổ sở.  Trong trường tình-ái, thử hỏi đã mấy ai được toại nguyện?  Nhan nhãn trên báo chương hằng ngày, những câu chuyện tình-duyên trắc-trở đưa đến sự quyên-sinh, thật không sao kể xiết.  Ðấy là “Cầu-bất-đắc khổ”. 

                g)  Oán-tắng-hội khổ: 

                Con người ở trong cảnh thương yêu, chẳng ai muốn chia ly; cũng như ở trong cảnh hờn ghét, chẳng ai mong gặp gỡ.  Nhưng oái-ăm thay!  Ở đời khi mong muốn được hội-ngộ, lại phải chia ly; cũng như khi mong ước được xa lìa, lại phải sống chung đụng nhau hằng ngày!  Cái khổ phải biệt-ly đối với hai người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổ phải hội-ngộ với hai người ghét nhau cũng như thế ấy. 

                Người ta thường nói: “Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở chung với người nghịch, như nếm mật, nằm gai”. 

                Chưa nói trường-hợp những người xa-lạ, ngay trong gia-đình bà con quyến-thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý-do gì đó, sanh ra bất hòa với nhau, cũng đủ khó chịu rồi.  Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau mãi!  Quyết không nói chuyện với nhau, mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng-ngùng.  Ðịnh tuyệt-giao hẳn, ngặt vì còn phải ăn chung ở lộn một nhà, dầu cố sức trốn tránh, song lắm lúc cũng phải giao-thiệp lấy lệ.  Thật là khổ.  Ðấy là bà con cật ruột, có tình cốt nhục, có nghĩa đồng-bào, mà sự hờn ghét còn thúc đẩy con người hết muốn thân-mến, không mong gặp gỡ nhau thay!  Huống chi đối với người dưng, nước lã, khác giống, khác nòi, một khi đã thù ghét nhau rồi mà phải sống bên cạnh nhau thì thế nào cũng có một ngày xảy ra đại họa. 

                Ðó là ý nghĩa của “Oán-tắng-hội khổ”. 

                h)  Ngũ-ấm-xí-thạnh khổ: 

                Cái thân tứ-đại của con người cũng gọi là thân ngũ-ấm (năm món che đậy): sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm.  Với cái thân ngũ-ấm ấy, con người phải chịu không biết bao nhiêu là điều khổ.  Giữa ngũ-ấm ấy luôn luôn có sự xung đột, mâu-thuẫn, chi-phối lẫn nhau.  Vì sự xung đột, mâu-thuẫn ấy, nên cái thân con người mới chịu những cái khổ sau đây: 

                -  Bị luật vô-thường chi-phối không ngừng, từ trẻ đến già, từ mạnh đến ốm, từ đau đến chết, luôn luôn làm cho con người phải lo sợ, buồn phiền. 

                -  Bị thất-tình, lục-dục lôi cuốn, làm cho con người phải đắm nhiễm sáu trần, phải khổ lụy thân tâm. 

                -  Bị vọng thức điên đảo chấp-trước, nên con người nhận thấy một cách sai lầm: có ta, có người, còn mất, khôn dại, có không, và sanh ra rầu lo, khổ não. 

                Ấy là “Ngũ-ấm xí-thạnh khổ”. 

    III.  ÐỨC PHẬT NÊU RÕ NHỮNG NỖI KHỔ ẤY ÐỂ LÀM GÌ ? 

                Có người sẽ băn-khoăn, thắc-mắc tự hỏi đức Phật nêu lên một cách rốt-ráo những nỗi khổ của thế-gian để làm gì?  Cuộc đời đã đau khổ như thế, thì nên che dấu bớt đi chừng nào hay chừng ấy, chứ sao lại lột trần nó ra làm gì cho người ta càng thêm đau khổ?  Ta cố-gắng tạo một ảo-tưởng tốt đẹp về cuộc đời để sống an-ổn trong ấy, có hơn không?  Ðứa trẻ nít sống một cách hồn-nhiên, yên-ổn trong hạnh-phúc, vì nó không biết đến những nỗi đau khổ, xấu-xa của cuộc đời.  Tại sao ta lại không cố bắt chước như chúng, đừng tìm hiểu gì cả về những sự xấu-xa, khổ sở của cuộc đời, để sống một cuộc sống có hạnh-phúc hơn?  Ðức Phật là một đấng thường được gọi là đấng từ-bi, sao lại làm một việc nhẫn tâm như thế? 

                Những câu hỏi thắc mắc trên, mới nghe thì hình như có lý, nhưng nếu suy xét một cách rốt-ráo, sẽ thấy chúng là nông cạn.  Ðức Phật không nhẫn tâm khi nêu lên những nỗi khổ căn-bản của cõi đời; chính là vì lòng từ-bi mà Ngài làm như thế.  Ðức Phật muốn cho người đời biết rõ những nỗi khổ của trần-gian, vì những lợi ích lớn sau đây: 

                1.  Gặp cảnh khổ không khủng khiếp. 

                Những nỗi khổ mà đức Phật nói ra ở trên là những nỗi khổ căn-bản, không ai tránh khỏi được.  Ðã sống, tất phải gặp chúng.  Có ai không ốm, không già, không chết?  Có ai suốt đời không gặp chia ly với người thân thuộc, không bị chung sống với những kẻ thù nghịch?  Có ai đạt được tất cả những điều mình mong ước?  Cho nên dù có muốn tạo ra một ảo-tưởng đẹp-đẽ về cuộc đời để sống cho yên ổn, thì ảo-tưởng ấy, sớm hay muộn gì cũng sẽ bị thực-tế phủ-phàng xé tan đi mất!  Và khi ấy, cuộc thế trần truồng, xấu-xí, ghê tởm sẽ hiện ra một cách vô cùng đột-ngột, trước mắt những kẻ thường quen sống trong ảo-tưởng đẹp-đẽ.  Bấy giờ, những kẻ thiếu chuẩn-bị để sống một cuộc sống khổ đau, sẽ hoảng lên, vô cùng tuyệt-vọng và có nhiều khi không đủ can-đảm để sống nữa. 

                Trái lại, khi chúng ta biết rõ cảnh Ta-bà này có nhiều điều khổ, thì gặp cảnh khổ, chúng ta không đến đổi khủng khiếp, tán loạn tinh-thần, mà trái lại, chúng ta sẽ điềm-tĩnh, nhẫn-nại để tìm phương giải-thoát.  Tỷ như nhà nông, biết bổn-phận mình là phải vất-vả với nghề cày sâu cuốc bẫm, tay lấm chân bùn, mới có lúa gạo để sống, nên gặp cảnh mưa tuôn, nắng táp cũng không nao-núng chút nào.  Trái lại, một kẻ quyền quí, quen sống trong nhung lụa, trong cảnh đền đài nguy-nga, rủi gặp thời cuộc hổn-loạn, đổi thay bất ngờ, đâm ra kinh-hãi và liều mình tự tử. 

                2.  Không tham cầu, nên khỏi bị hoàn-cảnh chi-phối. 

                Khi chúng ta biết rõ cuộc đời vui ít buồn nhiều, và hễ càng ham muốn nhiều thi lại càng đau khổ lắm, khi biết rõ như thế, chúng ta sẽ tiết chế dục-vọng của chúng ta và sẽ “biết đủ”.  Do đó, chúng ta không bị hoàn-cảnh chi-phối, không bị sóng đời lôi kép, vùi dập chúng ta xuống vực thẩm mênh-mông của cõi Ta-bà đen tối.  Tỷ như người trí, rủi bị giam-cầm, biết lo nghĩ phương kế để thoát ly lao-ngục, chứ không như kẻ dại, trong khi ngồi tù, chỉ lo tranh giành những món cơm thừa, canh cặn mà quên rằng mình sẽ bị đem ra xử-tử, nếu mình không sớm tìm kế thoát thân.           

                3.  Gắng sức tu-hành để thoát khổ. 

                Khi đã biết rõ thân người nhiều khổ và cảnh Ta-bà ít vui, con người mới mong ước được thoát-ly ra khỏi cảnh-giới đen tối của mình và sống ở một cảnh-giới tốt đẹp hơn.  Cũng như lũ trẻ đang chơi mê-mẫn trong cảnh nhà đang cháy, may nhờ đấng cha lành báo động, chúng mới biết và gấp rút tìm đường thoát ra. 

    C.      KẾT-LUẬN: 

    BIẾT KHỔ PHẢI TÌM NGUYÊN-NHÂN SANH RA KHỔ ÐỂ DIỆT TRỪ 

                Chúng ta đã được đức Phật từ-bi chỉ rõ cho thấy rằng cõi Ta-bà này, cũng như tam-giới đều là biển khổ.  Kinh Pháp-Hoa cũng nói: “Ba cõi không an, ví như nhà lửa”.  Tiếc vì chúng-sinh mê-muội, lấy khổ làm vui mà không tự biết, nên phải bị trầm-luân. 

                Nay chúng ta đã biết rõ mặt thật xấu-xí của đời rồi, đã biết nó là một biển khổ mênh-mông luôn luôn dạy sóng, thì ta phải nhàm chán nó, xa lánh nó.  Biết khổ để tìm cách thoát-ly, chứ không phải biết khổ để rồi chán đời, nản chí, buông xuôi tay ngồi khóc than.  Nhưng làm thế nào để thoát-ly nó, nếu chúng ta chưa rõ biết ngành ngọn, đường đi nước bước, chưa biết rõ vì đâu phát sinh đau khổ?  Nhà lương-y giỏi muốn trừ bệnh, phải tìm căn-nguyên bệnh.  Một viên tướng giỏi muốn diệt tận gốc bọn phiến-loạn, phải cho điều-tra kỹ-lưỡng sào huyệt, tổng-hành-dinh của chúng ở đâu, nhiên hậu mới có thể bao vây, đánh bắt chúng nó đầu-hàng một cách dễ-dàng. 

                Cũng vậy, biết khổ chưa đủ để diệt khổ.  Muốn diệt khổ tận gốc phải tìm nguyên-nhân phát sanh ra khổ. 

                Nguyên-nhân phát sanh ra khổ, đức Phật đã thuyết trong đoạn thứ hai của Tứ-diệu-đế là Tập-đế, mà quý độc-giả sẽ đọc trong bài thứ ba của tập sách nầy.

    Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu - 2023
    Đại Lễ Vu Lan

    Thư Mời về dự Đại Lễ Vu Lan 2567, tại Tu Viện Kim Cang lúc 10:30 AM sáng chủ nhật ngày 27 tháng 8 năm 2023



    Xem chi tiết...

       TIN TỨC SINH HOẠT
    Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu - 2024

     Xem chi tiết 
      Đại Lễ Phật Đản - PL 2568 (DL 2024)
      Chương Trình Tết Giáp Thìn
       PHẬT HỌC CĂN BẢN
    THOÁT ĐẾN THỰC TẾ

    Trong bài diễn văn đọc tại Oslo, khi được trao tặng giải thưởng cao quí về những hoạt động cho hòa bình, bậc vĩ nhân đầy lòng nhân đạo, Bác sĩ Albert Schweitzer nói:

    "Chúng ta phải ứng phó thực tế. Con người đã trở thành siêu nhân. Nhờ khoa học và các tiến bộ kỹ

     Xem chi tiết 
      ĐỨC PHẬT VÀ PHÁP GIÁO HOÁ CỦA NGÀI
      Khắc Phục Định Kiến Và Tập Khí Chỉ Lo Nghĩ Cho Bản Thân
       ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
    ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO

    Trước tiên, chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của từ đạo đức (Ethico) và các quan niệm tiêu biểu về đạo đức của các vùng văn hóa lớn của nhân loại.

    Tự điển Dagobert D.Runes (1970) định nghĩa: "Ðạo đức là môn học liên hệ đến các phán xét về điều kiện chấp nhận hay phủ nhận, đúng hay sai, tốt hay xấu, đức hạnh hay phi đức hạnh, dục vọng hay trí tuệ của các hành vi của con người".

     Xem chi tiết 
      Đạo Phật Và Chữ Hiếu
      Lễ Tháng Bảy Cho Những Oan Hồn Phiêu Bạt
       THIỀN HỌC PHẬT GIÁO
    SỰ SUY NIỆM CỦA NỘI TÂM

    Ngài U Jotika được sinh ra trong một gia đình không thuộc dòng dõi Phật giáo tại Myanmar, và ngài được theo học trong một ngôi trường dòng Thiên Chúa giáo của người La Mã. Ngài đã học ngành kỹ thuật điện tử và đã đọc rất nhiều sách thuộc về khoa học phương Tây, về triết học, và tâm lý học. Ngài đã kết hôn và là cha của 2 người con gái trước khi xuất gia là một tu sĩ. Thay vì thỉnh thoảng viếng thăm gia đình và ở lại Yangoon, thì ngài đã dành trọn thời gian của mình để sống ẩn dật.

     Xem chi tiết 
      Yếu Chỉ kinh Nhất Dạ Hiền
      Pháp Thể Nhập Tri Kiến Phật (Kinh Pháp Hoa)
       VĂN HÓA PHẬT GIÁO
    Hoài Niệm Hòa Thượng Trí Thủ

    Một buổi chiều xuân năm 1958, tôi lên núi Trại Thủy Nha Trang, thăm chùa Hải Đức. Tôi không vào chùa, tôi đi dạo chung quanh chùa nhìn tứ-vọng-cảnh, rồi ra sân xem những chậu hường, lấy giống từ Đà Lạt. Xa xa nơi bìa sân, một nhà sư áo nâu đứng lần chuỗi dưới gốc cây Bồ đề xanh tươi. Những hạt chuỗi đón ánh mặt trời như những vì sao óng ánh, nối nhau mọc rồi lặn, lặn rồi mọc, đều đặn ung dung.
    Hồi lâu nhà sư lặng lẽ đi ra sau chùa, lên Viện phật học cất trên hông đồi cao. Lòng tôi lâng lâng, và tôi có cảm giác rằng tôi là nhà sư. Đứng im một chỗ, nhưng tôi tưởng chúng tôi đương bước lên đầu non vừa đi vừa lần chuỗi. Cao hứng tôi sáng tác được một luật ngũ ngôn:

     Xem chi tiết 
      Lời Mẹ Nhắn Nhủ
      Lời Mẹ Ru
       PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
    Bát Nhã Tâm Kinh

    Phật Học Phổ Thông Khóa thứ XII

     Xem chi tiết 
      10 - Phần Chánh Tôn (Tiếp Theo)
      09 - Phần Chánh Tôn (Tiếp Theo)
       TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
    TỨ DIỆU ĐẾ

    Giáo lý Tứ đế là nền tảng của hệ thống giáo lý đạo Phật. Ngay sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài đến vườn Nai thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần Như, những bạn tu khổ hạnh với Ngài trước đây; nội dung bài thuyết giáo đầu tiên ấy là Tứ diệu đế. Từ đó, xuyên suốt hành trình hoằng hóa của Ngài, giáo lý Tứ diệu đế được triển khai, mở rộng. Đức Phật nhiều lần xác định về tầm quan trọng và siêu việt của giáo lý Tứ đế, Ngài dạy: "Những bậc A La Hán chánh đẳng giác ở trong quá khứ, ở trong tương lai hay hiện tại, được coi là vị Chánh đẳng giác đúng nghĩa là Chánh đẳng giác về Bốn thánh đế" (T- Ưng V).

     Xem chi tiết 
      SỰ VĨ ĐẠI CỦA ĐỨC PHẬT
      NĂM UẨN

    Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
    Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
    4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712