Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo


LỊCH SINH HOẠT SẮP TỚI

  • Khóa Lễ Chủ Nhật Hàng Tuần vào lúc 12pm.
  • Bát Quan Trai:
            - Vào ngày Saturday, 7 Tháng 12 Năm 2024 Âm Lịch: Lúc: 10:00am

    Các Ngày Lễ, Sám Hối và Bát Quan Trai khác:
    Sám Hối: Vào ngày:   Saturday 14-12-2024 Âm Lịch: Lúc: 7:30 pm
    Lễ Vía Phật A Di Đà: Vào ngày:   Sunday 15-12-2024 Âm Lịch: Lúc: 11:50am - 1:30pm
    Sám Hối: Vào ngày:   Monday 30-12-2024 Âm Lịch: Lúc: 7:30 pm


     BÀI HỌC CHO TUẦN NÀY
    (Phật Học Phổ Thông Khóa thứ II )

    TỊNH ĐỘ


    TỊNH - ÐỘ 

    A.  MỞ-ÐỀ: 

    Trong vũ-trụ có vô lượng thế-giới. 

                Như đức Phật ngày xưa đã dạy và các nhà khoa-học ngày nay đã xác-nhận, trong vũ-trụ này có hằng-hà sa số thế-giới.  Mỗi đêm, chúng ta ngước mặt lên dòm trời, bao nhiêu ngôi sao lấp lánh hay lu mờ xa tít, hiện ra trước mắt ta đây là bây nhiêu thế-giới.  Ngay một dãy ngân-hà với những đám trắng lờ-mờ như mây bạc đó, cũng đã chứa đựng từng triệu thế-giới rồi.  Huống chi trong vũ-trụ, đâu phải chỉ một dãy ngân-hà mà có mấy ngàn dãy như thế.  Cái phần chúng ta thấy được mỗi đêm, mặc dù không thể đếm hết, chỉ mới là phần rất nhỏ so với vũ-trụ mênh-mông mà ta không thể thấy được. 

                Trong kinh thường dạy: phương Ðông có vô số thế-giới như cát sông Hằng, mà phương Tây, phương Nam, phương Bắc cũng như thế (kinh Di-Ðà). 

    Nhưng chỉ có thế-giới Cực-lạc (Tịnh-độ) là vui hơn cả.

                Trong bao nhiêu thế-giới ấy, có thế-giới ô-uế, có thế-giới thanh-tịnh, có thế-giới đau-khổ, có thế-giới an-vui, có thế-giới mới thành hình, có thế-giới sắp tiêu diệt, có thế-giới thiên về vật-chất, có thế-giới trọng về tinh-thần. 

                Theo lời đức Phật Thích-Ca dạy, thì trong vô lượng thế-giới ấy, chỉ có thế-giới Cực-lạc hay Tịnh-độ của đức Phật A-Di-Ðà là vui hơn cả. 

                Hôm nay chúng tôi xin trình bày về thế-giới Cực-lạc ấy, theo như lời đức Phật Thích-Ca đã dạy. 

    B.  CHÁNH-ÐỀ: 

    I.  DANH HIỆU VÀ CẢNH TRÍ CÕI CỰC-LẠC HAY TỊNH-ÐỘ 

                Một hôm nhìn thấy đức Phật Thích-Ca, dung mạo khác lạ, vô cùng hoan-hỷ, Ngài A-Nan mới hỏi Phật: 

                - Hôm nay tại sao dung mạo của Phật lại khác hơn ngày thường?           

                Phật dạy rằng: 

                - Ta cảm nhớ đức Phật A-Di-Ðà, muốn nhắc đến nhân địa của Ngài, để chỉ dạy cho chúng-sanh pháp-môn tu Tịnh-độ. 

                Ngài dạy rằng: từ cõi ta-bà nầy hướng về phía Tây, hơn mười muôn ức cõi, có một thế-giới gọi là Cực-lạc hay Tịnh-độ.  Ở đó có đức Phật, hiệu là A-Di-Ðà, Ngài thường thuyết pháp. 

                Cảnh giới ở nước thanh tịnh ấy, vô cùng đẹp-đẽ, sáng-lạng, vui tươi.  Phong cảnh cả toàn cõi như là một vườn hoa vĩ-đại với những hàng cây ngay-ngắn, những tường hoa, những dây leo rũ xuống như màu gấm, như lụa là; có những hồ nước chứa đầy những thứ nước có tám công-đức.  Ðáy hồ lát bằng cát vàng; trong hồ có những hoa sen lớn bằng bánh xe, đủ màu sắc, hương tỏa thơm ngát, và có hào quang đẹp-đẽ: hễ hoa màu xanh, thì phát ra hòa quang xanh; hoa màu trắng, thì phát ra hào quang trắng; hoa màu hồng, thì phát ra hào quang hồng…  Ðường sá cầu cống, đền đài, điện các ở cõi Tịnh-độ đều làm bằng ngọc vàng châu báu, vô cùng quý giá. 

                Chim chóc ở đây là những thứ chim báu, như bạch-hạc khổng-tước, anh-vỏ, xá-lợi, ca-lăng, tằng-già v.v… những thứ chim này, ngày đêm sáu thời, hót ra những thứ tiếng pháp vi-diệu, hòa lẫn trong những điệu nhạc thiêng, làm cho ai nghe đến, cũng phải liền phát tâm hoan-hỷ niệm Phật.  Các loài chim do đức Phật A-Di-Ðà biến hóa ra để thuyết-pháp cho chúng-sinh nghe.  Chẳng những chim biết nói pháp, mà cho đến nước chảy, gió thổi cây reo đều là những lời thuyết-pháp vi-diệu, ai nghe cũng đều phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.  Ở đấy, không bao giờ có bóng tối, vì nhờ hào quang của Phật phát ra, sáng chói luôn luôn.  Cảnh giới trang-nghiệm, huy-hoàng, xinh đẹp như thế là do sức đại nguyện của đức Phật A-Di-Ðà, các bậc Bồ-tát và Thánh-chúng, toàn là bậc Thượng-thiên gây nên. 

                Trong hoàn cảnh thuận tiện, vui tươi như thế, nên tất cả mọi người ở đấy, ai cũng tinh tấn tu-hành và dễ được thành đạo-nghiệp. 

    II.  NHỮNG ÐIỀU KIỆN ÐỂ VÃNG-SANH VỀ CÕI TỊNH-ÐỘ 

                Muốn được sanh về cõi Tịnh-độ, trước tiên cần phải đủ ba điều kiện sau đây:           

    1.  Ðức tin chắc chắn. 

                Trong kinh Hoa-Nghiêm có nói: “Tin là mẹ các công-đức.  Tin có thể thành-tựu quả Bồ-đề.  Lòng tin có ba khía cạnh: 

                a)  Tin Phật là đấng sáng-suốt từ-bi cứu khổ mọi loài.  Vì muốn cứu độ chúng-sanh mau hết khổ sanh-tử, nên Ngài mới chỉ bày cảnh Tịnh-độ của Phật A-Di-Ðà là một cảnh có thật.           

                b)  Tin giáo pháp của Phật nói ra là đúng đắn chơn thật, dạy chúng ta phải nhất tâm niệm Phật, cầu vãng-sanh về cảnh giới của Phật A-Di-Ðà.  Chúng ta tin chắc theo giáo pháp của Ngài mà tu hành thì sẽ được thành công.           

                c)  Tin ở nơi sức mạnh của mình.  Nếu ta thật tâm tin chắc: ta là Phật sẽ thành, nhất tâm trì niệm danh hiệu Phật, quyết chắc sẽ được vãng-sanh cõi Tịnh-độ. 

                2.  Lập nguyện vững vàng. 

                Nguyện là ý muốn tốt đẹp.  Lập nguyện vững vàng nghĩa là thiết tha mong muốn, lập chí nguyện không thối chuyển, quyết sinh về Cực-lạc, dù có gặp bao trở ngại gian-lao, khổ sở.  Phải có tấm lòng thiết tha, không giờ phút nào xao-lãng ý muốn được gần Phật A-Di-Ðà, như con đi xa thiết-tha được về gặp mẹ. 

                Trong mọi công việc lớn lao, chí nguyện là quan trọng.  Không có chí nguyện, thì không có gì thành tựu được cả.  Một nhà văn đã viết rất đúng: “Ðường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.  Người có chí nguyện, như thuyền có lái, như ngựa có cương.  Từ việc đời cho đến việc đạo, muốn thành công, đều cần yếu là lập chí-nguyện cho vững-vàng. 

                3.  Lập hạnh đúng theo chí nguyện.

                Ðã có chí nguyện rồi, phải thực hành theo đúng chí nguyện.  Thực hành ở đây là luôn luôn trì niệm danh hiệu Phật A-Di-Ðà, niệm luôn luôn trong khi đi đứng, nằm ngồi, cho đến “nhất tâm bất loạn”. 

                Tóm lại, điều kiện tiên-quyết để vãng-sanh về thế-giới Cực-lạc của Phật A-Di-Ðà, không có gì khó khăn, cũng không có gì bó buộc lắm, mà trái lại, bất luận ai, sang hèn, giàu nghèo, trí thức hay thiếu học đều có thể có được.  Ðó là: có đức tin mạnh mẽ, lập nguyện vững vàng, thực hành theo đúng chí nguyện.  Có đủ ba yếu tố Tín, Hạnh, Nguyện, là có thể bước lên đường đi đến cõi Cực-lạc.  Cuộc hành trình ấy có thể chậm có thể mau, có thể khó khăn, có thể dễ dàng, nhưng ai đã có đủ ba điều kiện ấy, thì thế nào cũng đến đích.  Ðức Phật A-Di-Ðà lúc nào cũng sẵn-sàng chờ đợi để đón tiếp chúng ta, như mẹ chờ con đi xa về.  Nhưng nếu mẹ chờ con mà con không nhớ mẹ, không muốn quay về, thì mặc dù có gần nhau đi nữa, cũng chẳng khác gì hai người xây lưng lại với nhau mà đi, một người đi về phương Nam, một người đi về phương Bắc, càng đi càng xa, không thể gặp nhau được nữa.  Trái lại, nếu con nhớ mẹ, một lòng muốn gặp mẹ, trong lúc mẹ cũng đang nhớ và chờ đợi con thì, cũng như hai người hướng về nhau mà đi, một người ở phương Tây đi về phương Ðông, một người ở phương Ðông đi về phương Tây, mặc dù có cách xa muôn trùng, thế nào cũng sẽ gặp nhau. 

                Ta tin có Phật A-Di-Ðà, ta quyết chí về cõi Phật A-Di-Ðà, ta quyết tâm thực hiện chí nguyện ấy, thì mặc dù cõi Cực-lạc cách xa mười muôn ức cõi, khi lâm chung, ta cũng sẽ được đức Phật A-Di-Ðà và Thánh-chúng hiện ra để tiếp độ ta về cõi ấy. 

    III.  PHÁP TU VỀ CỰC-LẠC (TỊNH-ÐỘ) 

                Phương-pháp tu về Cực-lạc có nhiều lối, nhưng không ngoài các pháp niệm Phật.  Ðây lược kể bốn pháp niệm Phật: 

    1.  Trì-danh niệm Phật. 

                Trì-danh niệm Phật tức là giữ một lòng nhớ nghĩ danh hiệu Phật, là niệm “Nam-mô A-Di-Ðà Phật”.  Khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, cũng niệm.  Niệm từ buổi mai khi mới thức dậy, cho đến buổi tối, trước khi đi ngủ.  Niệm suốt cả ngày không xen hở.  Khi gần đi ngủ, ngồi xếp bằng bán-già hay kiết-già, chắp tay mà nguyện rằng: 

                “Con tin lời của đức Phật A-Di-Ðà, giữ một lòng niệm danh hiệu Ngài, nguyện đời này, bao nhiêu tội chướng thảy đều tiêu sạch, đến khi lâm-chung được Phật và các vị Bồ-tát, đến tiếp dẫn chúng con về Cực-lạc”. 

    2.  Tham-cứu niệm Phật.

                Pháp niệm-Phật tương-tợ pháp trì-danh, nhưng mà có khác, nghĩa là môi miệng không động, niệm không ra tiếng, mà trong tư tưởng có niệm Phật. 

                Khi niệm có tiếng thì xét tiếng ấy từ đâu mà sanh ra.  Ðến khi hết niệm không nghe nữa, thì xét tiếng ấy coi nó đi vào chỗ nào.  Xét cho biết chỗ sinh ra, chỗ trở về là đã được một phần công phu khá cao rồi, cứ giữ như thế mà niệm, đừng cho tán loạn thì chắc có ngày minh tâm kiến tánh. 

    3.  Quán tưởng niệm Phật. 

                Là quán-tưởng hình dung đức Phật A-Di-Ðà ở trước mắt ta, mình cao một trượng sáu thước, đứng trên hoa sen, và quán thân ta cùng ngồi trên hoa sen, chắp tay hầu Phật.  Phật thấy ta, ta thấy Phật.  Quán như thế lâu ngày, đi, đứng, nằm, ngồi, nhắm mắt, mở mắt đều thấy Phật, tức là pháp quán đã thuần-thục. 

    4.  Thật tướng niệm Phật. 

                Thật-tướng niệm Phật là niệm Phật hợp với chân-tâm.  Vì tất cả các pháp đều do tâm biến hiện, bởi tâm biến hiện, nên tướng nó đều là hư-vọng (phàm sở tướng, giai thị hư-vọng), duy có chân-tâm là chân-thật, không sinh, không diệt; không khứ, không lai, xưa nay thanh-tịnh bình-đẳng như như, không hư vọng, không biến diệt, cho nên mới gọi là thật-tướng. 

                Ba pháp niệm Phật trước thuộc về Sự, có tánh-cách tiệm tu và tiệm quán.  Ðến pháp thư tư này, là thuộc về Lý-tánh, cao siêu hơn cả.  Niệm Phật đến đây, mới hoàn toàn rốt-ráo, mới ngộ tánh mình là Phật A-Di-Ðà, tâm mình là cảnh Tịnh-độ. 

                Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự mới hiển ra Lý.  Trước hết cũng do Trì-danh niệm Phật, Quán-tưởng niệm Phật v.v… nhờ lối dụng-công tu ba pháp trước, đến lúc thuần-thục không còn thấy có mình là người niệm Phật và Phật là một vị mình niệm, chỉ còn có một chơn-tánh vừa yên lặng, vừa chiếu soi không năng, không sở, không bỉ, không thử, không hữu, không vô.  Chỗ này chính như trong Kinh Tứ thập nhị chương, Phật nói: “Niệm đến chỗ vô niệm”; hay trong kinh Di-Ðà nói: “Ðược nhứt tâm bất loạn”. 

    IV.  SỰ QUAN-HỆ CỦA NIỆM PHẬT TRONG LÚC LÂM CHUNG 

                Theo quan-niệm sai lầm của phần đông, thì khi ông bà cha mẹ chết, con cháu phải khóc cho nhiều mới có hiếu.  Nhiều gia-đình lại còn thuê người đến “khóc mướn” để cho “rậm đám”.  Theo đạo Phật thì trái lại, lúc ông bà cha mẹ chết, mà con cháu khóc lóc nhiều, làm ồn, rối loạn tâm thần người sắp chết là con cháu bất hiếu.  Thật thế, phút quan trọng ấy cần để cho người sắp lâm-chung được yên-tỉnh, đừng làm cho họ động tâm, cảm xúc quá mà khó lìa bỏ cõi đời. 

                Một điều quan-trọng nữa là, khi gần lâm-chung, biết rằng không thể sống được, các trần duyên nên buông bỏ, đừng mến tiếc của cải, nhà cửa đẹp, con cháu ngoan.  Lòng quyến luyến ấy làm cho người sắp từ-trần khó vãng-sanh.  Trong sách có ví-dụ: như con cò bị con ngao kẹp miệng lại mặc dù có đủ cánh hoạt mạnh, mà không thể bay lên được. 

                Nên nhớ rằng trong các nghiệp nhân, cận tử-nghiệp (nghiệp trước khi lâm-chung) là có một mãnh lực rất lớn trong sự đầu thai.  Nếu còn tâm-niệm tham-lam mến tiếc, thì bị luân-hồi trở lại, để giữ gìn của cải, và kết duyên làm tình nghĩa ái ân nữa, mảy mảy sanh tử luân-hồi không dứt. 

                Vậy trong phút lâm-chung, người đương-sự cần có tâm-hồn thanh-thoát, không luyến tiếc đau khổ, mà trái lại, phải thiết tha cầu sinh tịnh-độ.  Còn những người thân-thuộc thì phải tránh sự khóc lóc, níu kép người sắp từ-trần và phải hộ-niệm hết sức thành tâm, để vong-linh người lâm-chung được nhẹ nhàng siêu thoát.

    V.  PHÁP-MÔN NIỆM PHẬT (TỊNH-ÐỘ) DỂ TU VÀ CHẮC CHẮN CÓ KẾT-QUẢ 

                Ðạo Phật có muôn ngàn pháp-môn, tựu trung có pháp-môn niệm Phật là dễ tu hơn cả.  Các pháp-môn khác như con mọt đục ống tre từng mắc mà lên, còn pháp-môn niệm Phật như con mọt đục ngay mình tre mà ra.  Hai phương-pháp đều đưa con một ra khỏi ống tre cả, nhưng phương-pháp sau có kết quả mau chóng hơn phương-pháp trước. 

                Cổ nhơn dạy: “Người tu Thiền mà không tu Tịnh-độ (niệm Phật) thì mười người lầm hết chín.  Người tu Tịnh-độ mà không Tham-Thiền, muôn người tu, muôn người được vãng-sanh (nếu nhất tâm).  Niệm Phật có cả Tham-thiền, như con cọp đã có sức mạnh, lại còn mọc thêm sừng”.  Nghĩa là lối tu niệm Phật đã chắc-chắn rồi, mà còn Tham-thiền, lại càng chắc chắn hơn nữa.  Còn người không tu Thiền, mà cũng không tu Tịnh-độ, thì như nằm giường sắt nóng, và ôm trụ đồng; nghĩa là không tu môn nào, cứ tạo điều ác, thì phải đọa vào địa-ngục, chịu hành phạt khổ sở.  Một phen để mất thân người rồi, khó mà trở lại làm người được. 

    VI.  DẪN CHỨNG 

                Pháp-môn niệm-Phật, chắc-chắn được kết quả mỹ-mãn như ý muốn.  Kinh Di-Ðà, kinh Thập-lục-quán, kinh Hoa-Nghiêm, kinh Phương-Ðẳng v.v… đều tán-thán pháp-môn niệm Phật.

                Các vị Bồ-tát cũng đều tu pháp-môn niệm Phật.  Như Ngài Văn-Thù Bồ-tát, trong bài kệ phát nguyện, có nói: “Nguyện ngã dâm dục mạng chung thời, tận trừ nhứt thế chư chướng-ngại, diện kiến bỉ Phật A-Di-Ðà, tức đắc vãng-sanh An-lạc quốc”.  (Nghĩa là: Nguyện khi tôi lâm chung, dứt trừ các điều ngăn ngại, thấy đức A-Di-Ðà trước mắt, liền được vãng-sanh về cõi Cực-lạc). 

                Ngài Phổ-Hiền, Ngài Mã-Minh, Ngài Long-Thọ, Ngài Vô-Trước, Ngài Thiên-Thân bên Tướng tôn, Ngài Trí-Giả Ðại-sư bên Thiên-Thai tôn, Ngài Hiền-Thủ bên Hiền-Thủ tôn, và còn nhiều vị Tổ-sư khác cũng chuyên niệm Phật cầu vãng-sanh Cực-lạc. 

                Pháp-môn niệm Phật có sự linh-nghiệm rõ-ràng.  Như ở Trung-hoa, Ngài Huệ-Viễn lập hội Liên-xã, chuyên tu pháp-môn niệm Phật, ba lần thấy Phật.  Còn nhiều Ngài khác, tu pháp-môn niệm Phật, khi lâm chung, biết trước ngày giờ vãng-sanh.  Tại Việt Nam, Ngài Nhất-Ðịnh chùa Từ-Hiếu, Ngài Tường-Vân (ở Huế), Ngài Hòa-thượng Tế-Xuyên (ở Hà-nam) đều biết trước ba ngày thị-tịch.  Chẳng những các Ngài xuất-gia, mà bên hàng cư-sĩ như ông chủ Thời (Gia-định), ông Phó Kinh ở Nam-định (Bắc-việt) v.v… cũng biết trước ba ngày sẽ lâm chung. 

                Pháp niệm Phật còn có nhiều linh-nghiệm lạ thường khác nữa, không thể kể xiết được. 

    VII.  LỢI-ÍCH CỦA PHÁP NIỆM PHẬT TRONG ÐỜI SỐNG HIỆN TIỀN 

                Niệm Phật có nhiều lợi-ích, không những đời sau được vãng-sinh về cõi Phật, là lợi ích chính, mà hiện tại cũng có nhiều lợi ích thiết thực. 

                1.  Niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng-sinh: 

                Niệm chúng-sinh tức là nhớ nghĩ đến những điều xấu xa như tham, giận, kiêu-căn… Do những điều nhớ nghĩ ấy mà lời nói hay việc làm đều vương mang tội lỗi.  Nếu ta niệm Phật, thì tâm trí không còn nhớ nghĩ đến những điều xấu xa, miệng và thân không tạo ra nghiệp ác, nghĩa là ta đã diệt được niệm chúng-sanh.  Một giờ niệm Phật, là một giờ bớt niệm chúng-sinh; một ngày, một tháng, một năm, một đời chuyên niệm Phật, là một ngày, một tháng, một năm, một đời tránh được niệm chúng-sinh, tránh được điều ác, và làm được việc lành.           

                2.  Niệm Phật sẽ trừ được tâm buồn phiền: 

                Trong những lúc buồn phiền đau khổ, như khi gặp cảnh con cái biệt ly, vợ chồng xa cách, nhà cửa tiêu tan v.v… nếu ta niệm Phật, thì buồn phiền đau khổ sẽ tiêu tan.  Vì sao vậy?  Vì một khi ta nhớ nghĩ đến Phật A-Di-Ðà, đến cảnh giới của Ngài, thì không còn bận tâm nghĩ đến những nỗi-niềm riêng của ta nữa.  Niệm Phật đổi được niệm phiền-não là thế.  Nếu niệm Phật, tăng thì niệm phiền-não phải giảm.  Cho nên Cổ-đức có nói: 

    Một câu niệm Phật giải oan khiên” 

                Tóm lại, sáu chữ Nam-mô A-Di-Ðà Phật, có lợi ích rất nhiều và thiết thực là làm tiêu tan được phiền-não nghiệp chướng.  Nếu người không tin có nước Cực-lạc, có Phật A-Di-Ðà mà niệm Phật, cũng vẫn có lợi ích nhiều. 

    VIII.  QUYẾT NGHI 

                1.  Có người hỏi rằng: 

                - Phật có vô số, vì sao chỉ niệm Phật A-Di-Ðà?           

                Trả lời: 

                - Tất cả chư Phật đều đồng một thể-tánh chơn-như bình-đẳng.  Niệm Phật A-Di-Ðà tức là niệm tất cả chư Phật.  Ví như trong một căn phòng rộng, quanh tường có treo tram cái gương, ta chỉ đứng soi vào một tấm gương, mà cả trăm tấm gương đêu phản chiếu hình ta.           

                2.  Lại có người hỏi: 

                - Phật đã có khắp nơi, thì cảnh Phật cũng có khắp nơi.  Tại sao không niệm về Ðông phương Phật, Nam phương Phật, mà chỉ cầu về Tây phương Cực-lạc? 

                Trả lời: 

                - Ðúng là cõi Phật ở đâu cũng có, muốn cầu về cõi nào cũng được, nhưng chúng ta chỉ cầu về Tây phương Phật, vì hai lý do:           

                a)  Cảnh Cực-lạc Tây phương là cảnh mà nhờ đức Phật Thích-Ca giới thiệu, chúng ta biết rõ hơn cả.  Ðến một cảnh-giới mà ta đã có ý niệm bao giời cũng hơn là đến một nơi ta còn xa lạ, không biết rõ gì cả. 

                b)  Ta chuyên tưởng niệm một cảnh-giới nhất định, thì tâm sẽ được duy nhất.  Nếu hôm nay niệm cảnh giới này, hôm sau niệm cảnh giới khác, thì tâm sẽ tán loạn, ý niệm không được tập trung.  Cũng như nhiều ngả thì dễ lạc.  Bắn tên phải nhắm vào một đích nhất định, mới hy-vọng trúng.  Tu pháp-môn niệm Phật cốt nhất là được “nhất tâm bất loạn”. 

    C.  KẾT-LUẬN:

                Pháp-môn niệm Phật là một pháp-môn dễ tu hành hơn cả.  Niệm Phật không phải hao công, nhọc sức, khó khăn.  Người trí thức, kẻ đi buôn, người làm ruộng, kẻ thợ thuyền, bất luận ở nơi đâu và lúc nào, đều có thể niệm được cả.  Pháp-môn niệm Phật đã dễ tu mà lại có kết-quả chắc thật, viên-mãn là vãng-sanh về Tây phương Cực-lạc. 

                Song muốn có kết quả, điều kiện tiên-quyết là phải có: Tín, Hạnh, Nguyện đầy đủ; phải có sự, lý viên dung, không nên chấp sự bỏ lý, hay chấp lý bỏ sự.  Cốt yếu là phải niệm đến nhất tâm bất loạn, cầu sanh về Cực-lạc, không còn khổ: sanh, già, bệnh, chết nữa. 

                Chúng ta đã trót sinh ra ở cõi đời này, ai lại không biết có thân là khổ, dù có vui đi nữa, cũng chỉ vui trong chốc lát, mà cái khổ lại đeo đuổi theo luôn, như hai bánh xe lăn theo sau chân con bò.  Vậy chúng ta nên chuyên cần niệm Phật, để sớm được giải-thoát.  Sách có câu: 

    Mạc đãi lão lai phương niệm Phật.

    Có phần đa thị thiếu niên nhơn”. 

                Nghĩa là: chớ đợi đến già mới niệm Phật; trong nghĩa địa, thiếu chi mồ của hàng thiếu niên.  Vì vậy, trong giờ phút còn mạnh khỏe, chúng ta phải chuyên cần niệm Phật.  Biết vô-thường còn kiên tâm chờ đợi chúng ta đến ngày mai chăng? 

    NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT


    Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
    Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
    4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712