VU - LAN - BỒNA. MỞ-ÐỀ: 1. Công ơn sanh thành dường-dục rất lớn lao. Chúng ta thường nghe câu ca-dao: “Công cha như núi Thái-sơn; Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. (Công ơn cha mẹ thật quả lớn-lao như núi cao, bể cả). Mẹ thì chín tháng cưu mang, ba năm cho bú mớn, suốt đời chỉ biết hy-sinh cho con. Khi đang ăn cũng như khi ngủ nghỉ, hễ con cần đến là có mẹ ở bên cạnh. Con lỡ dại, tiểu-tiện ở trên mình, mẹ vẫn vui cười không chút hờn giận. Gặp cảnh nghèo hèn, mẹ nhịn bớt cơm cho con ăn, dành chỗ khô ráo cho con nằm (bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn). Rủi khi con đau ốm, mẹ ngồi bên cạnh, năm canh thao thức lo âu; chỉ khi con khỏe mạnh tươi cười, mẹ mới vui tươi hớn hở. Ca-dao có câu: “Lên cao mới biết non cao Nuôi con mới biết công lao mẫu từ” Còn cha mẹ thì phải lo làm-lụng vất-vả để nuôi con. Nếu gặp cảnh nghèo-khó, cha phải làm thuê, ở mướn, mua tảo bán tần, đổi mồ hôi lấy bát cơm, manh áo cho con. Ngoài ra cha lại còn dạy dỗ cho con học hành, ngày đêm lo-lắng đào tạo cho con thành người hữu dụng, khôn ngoan, khỏi thua chúng kém bạn. Công ơn cha mẹ nói ra bao nhiêu cũng không cùng. 2. Làm con cần phải lo báo hiếu. Bất luận luân-lý đạo-đức nào, Ðông hay Tây, xưa hay nay, đều lấy chữ “Hiếu” làm đầu. Một người con đã bất hiếu với cha mẹ, thì không còn một việc xấu-xa gì mà không làm được. Một kẻ vong ân bội nghĩa như thế, thì không còn biết nhân nghĩa, bác-ái, công-bằng là gì nữa. Bởi vậy cho nên, người xưa có câu: “Thiên kinh vạn quyển, Hiếu nghĩa vi tiên” (Ngàn quyển kinh, vạn quyển sách, đều lấy Hiếu nghĩa làm đầu). Kinh Thi có nói một câu rất cảm-động: “Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao, Dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực”. Nghĩa là cha sanh ta, mẹ nuôi ta. Hỡi ôi, cha mẹ sanh ta cực nhọc. Muốn đền đáp ân đức của cha mẹ, như với lên trời cao chẳng cùng. Phật cũng dạy: “Phụ-mẫu tại đường như Phật tại thế” Nghĩa là cha mẹ còn sinh tiền, cũng như Phật còn ở đời. Xem thế, Phật đã đề cao biết bao sự hiện diện quí trọng của cha mẹ. Vì cha mẹ quí trọng như thế, nên Ngài lại dạy thêm: “Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”. (Hiếu-thảo đứng đầu trong mọi việc). Ðể Phật-tử làm tròn nhiệm-vụ hiếu đạo, nên đức Phật dạy pháp Vu-Lan-Bồn dưới đây. B. CHÁNH-ÐỀ: Vu-Lan-Bồn là một phương-pháp báo hiếu có hiệu quả nhất. Nhưng trước tiên, chúng ta hãy hiểu nghĩa Vu-Lan-Bồn thế nào đã. I. ÐỊNH-NGHĨA. Vu-Lan-Bồn là phiên âm theo tiếng Phạn. Người Trung-Hoa dịch là: “giảo đảo huyền”, nghĩa đen là cởi trói người bị treo ngược; nghĩa bóng là cứu vớt những kẻ đau khổ nặng-nề như bị treo ngược. II. NGUYÊN-NHÂN PHẬT DẠY PHÁP VU-LAN-BỒN. Ngài Ðại-hiếu Mục-Kiền-Liên, sau khi tu hành chứng được 6 phép thần-thông, ngậm-ngùi nhớ đến công ơn của mẹ, Ngài liền tìm cách báo đáp. Dùng đạo-nhãn xem trong thế-gian, Ngài nhận thấy mẹ mình sanh làm loài ngạ-quỉ, thân thể ốm gầy, da bọc xương, thân hình tiều tụy, bụng lớn, đầu to, cổ nhỏ như ống chỉ, đói khát suốt năm không được ăn uống. Thương xót quá, Ngài liền đem bát cơm đang ăn để dâng mẹ. Ngài vận thần-thông, bưng bát cơm đi đến chỗ mẹ ở. Bà mẹ vì quá khao-khát, nên khi được cơm, lòng tham nổi lên, sợ người cướp giựt, lấy tay trái che giấu bát cơm, tay mặt bốc ăn. Bởi lòng tham lam độc ác trong tiền kiếp nổi bừng lên, nên cơm mới đưa vào miẹng, thì hóa thành ra lửa, bà chẳng ăn được. Ngài Mục-Kiền-Liên thấy thế, hết sức đau buồn, kêu khóc thảm thiết. Ngài liền trở về bạch Phật, thuật lại như trên và cầu Phật chỉ dạy cho phương pháp cứu độ thân mẫu. III. PHẬT DẠY PHÁP VU-LAN-BỒN CHO NGÀI MỤC-KIỀN-LIÊN. Sau khi nghe Ngài Mục-Kiền-Liên thỉnh cầu phương-pháp báo hiếu, Phật dạy rằng: - “Này Mục-Kiền-Liên ! Mẹ của ông do lòng tham-lam, độc-ác, đã tạo ra tội lỗi nặng-nề trải qua nhiều kiếp, nay sanh trong ác đạo, làm loài ngạ-quỷ, nên không thể một mình ông cứu độ được. Mặc dù lòng hiếu thảo của ông vô cùng lớn lao, cũng không sao chuyển được hoàn-cảnh, chẳng khác gì chiếc thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy ông phải nhờ oai-thần của chúng Tăng trong mười phương, đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ ông được giải-thoát. Ta nay sẽ vì ông, chỉ dạy phương-pháp cứu rỗi, khiến cho cha mẹ ông xa lìa được các điều tội lỗi. Này Mục-Kiền-Liên ! Ngày rằm tháng 7 là ngày tự-tứ của chư Tăng trong mười phương, sau ba tháng an-cư, kiết-hạ, sách tấn tu hành. Ngày ấy cũng là ngày hoan-hỷ của các chư Phật, vì thấy chư Tăng sau ba tháng an-cư kiết-hạ, đã tiến-bộ rất nhiều trên đường tu học, các nghiệp được thanh-tịnh, ba món vô-lậu học được tăng trưởng, công đức thêm nhiều và đến ngày viên-mãn. Vậy ông nên nhân ngày ấy làm lễ Vu-Lan-Bồn để báo hiếu cho mẹ ông. Ông hãy sắm đủ các món trai-diên trăm mùi, năm thứ trái, cùng hương dầu đèn nến, giường chõng, chiếu chăn, mùng mền, quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay; tóm lại là đủ bốn món cúng dường quí báu trong đời. Rồi ông phải thân hành đi rước các vị đại-đức Tăng trong mười phương, hoặc những vị thiền-định trong núi rừng, chứng được bốn quả thánh, hoặc có vị kinh hành dưới cội cây được sáu phép thần-thông tự-tại như hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác, các vị thánh Tăng, hoặc các vị thập-địa Bồ-tát thị hiện làm thầy Tỳ-kheo v.v… Ông phải thành tâm kính lễ trai tăng cúng-dường và thỉnh cầu chư Tăng chú nguyện cho vong-linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công-đức chí thành chú nguyện, vong-linh mẹ ông sẽ được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng trăm cân, song có nhiều người khiêng, thì dời đi đâu cũng được”. Ngài Mục-Kiền-Liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng 7 làm lễ Vu-Lan, sắm đủ các vật liệu, rước chư Tăng trong mười phương thành tâm kính lễ trai-tăng cúng-dường, nên vong mẫu của Ngài được thoát khỏi khiếp ngạ quỷ, sanh về cảnh giới lành. IV. NGÀI MỤC-KIỀN-LIÊN HỎI PHẬT: CÁC HÀNG PHẬT-TỬ ÐỜI SAU CÓ THỂ LÀM LỄ VU-LAN-BỒN ÐƯỢC KHÔNG? Sau khi thấy thân mẫu được thoát khổ, Ngài Mục-Kiền-Liên hết sức vui mừng, liền đến trước Phật chắp tay bạch rằng: - Bạch Thế-Tôn! Thân mẫu của con được nhờ công-đức Tam-bảo và oai-thần của chư Tăng, nên được thoát ly kiếp ngạ quỷ khổ não. Vậy về đời sau, trong hàng Phật-tử, nếu có người muốn làm lễ Vu-Lan-Bồn này, để cứu độ cha mẹ hiện tại cũng như cha mẹ nhiều kiếp trước, chẳng biết có được không ? Phật dạy rằng: - Quý lắm ! Này Mục-Kiền-Liên ! Ðời sau, nếu có được các thầy Tỳ-kheo và Tỳ-kheo Ni, vua, thái-tử các quan tể-tướng, những hàng tam-công cho đến thứ dân, vì lòng hiếu-thảo muốn đền đáp công ơn cha mẹ hiện-tại hay quá-khứ, thì cứ ngày rằm tháng 7 là ngày “Phật hoan-hỷ”, làm lễ Vu-Lan này, để cúng-dường trai tăng. Nhờ công-đức của chư Tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tại được tăng long phước thọ, khỏi những điều tai hoạn, khổ não, còn cha mẹ bảy đời trước thì khỏi bị khổ ngạ-quỷ, được sanh trong cõi nhơn thiên, hưởng phước vui vẻ không cùng. Khi đó Ngài Mục-Kiền-Liên và bốn chúng đệ-tử đều hoan-hỷ vâng làm. Và từ đó về sau, mỗi năm cứ đến ngày rằm tháng 7, các hàng Phật-tử chí hiếu, đều có làm lễ Vu-Lan để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. V. Ý-NGHĨA ÐÚNG ÐẮN VÀ ÐẦY ÐỦ CỦA SỰ BÁO HIẾU THEO QUAN-NIỆM ÐẠO PHẬT. Tất-nhiên sự báo hiếu không những chỉ nhắm vào một lễ Vu-Lan. Không phải mỗi năm chỉ tổ-chức một lễ Vu-Lan, là đã tự cho mình là người con chí-hiếu vì đã làm đầy đủ hiếu đạo. Như trên đã nói, công ơn cha mẹ rộng như trời bể, làm con suốt đời báo ơn cha mẹ vẫn chưa vừa. Nhưng trong lúc bao hiếu, phải có một quan-niệm sáng suốt, đúng-đắn mới thật có lợi-ích và hiệu quả. Báo hiếu có nhiều cách, nhưng không ngoài hai phương diện: vật-chất và tinh-thần. 1. Báo-hiếu về vật-chất thì hầu hạ vâng thờ, thay làm các việc nhọc, săn-sóc miếng ăn thức uống, áo quần, chiếu giường, chỗ nghỉ ngơi, không để cho cha mẹ thiếu thốn, lo nghĩ. Song người Phật-tử phải sáng suốt trong khi báo hiếu, không nên quá chìu theo ý muốn của cha mẹ mà tạo những nghiệp dữ, như sát nhân, hại vật, gây tội lỗi để làm cho cha mẹ được sung-sướng trong vật chất. Làm như thế không phải là báo hiếu mà chính là bất hiếu, vì đã gây tạo tội lỗi thêm cho cha mẹ và cho mình. Vả lại, báo hiếu về vật-chất, dù đầy đủ cho mấy đi nữa, chẳng qua cũng chỉ làm cho cha mẹ được vui-vẻ thỏa-mãn trong một kiếp hiện tại mà thôi. Cái vui vật-chất là vui giã tạm, vui trong vòng sanh-tử luân-hồi. Vậy sự báo hiếu về vật-chất chưa phải là đầy đủ. 2. Báo-hiếu về tinh-thần: - Người Phật-tử phải tiến lên một tầng nữa, là lo báo hiếu về tinh-thần. Báo hiếu về tinh-thần là làm sao cho tinh-thần của cha mẹ được nhẹ nhàng, cao thượng và đi dần đến chỗ giải-thoát. Phật-tử phải khuyên cha mẹ tin nhơn quả tội phước và quy-y Tam-bảo, bố-thí phóng-sanh, niệm Phật, làm các việc lành, giữ giới và tu nhơn giải-thoát. Có như thế, thì không những trong hiện tại cha mẹ được yên vui, thanh-tịnh mà đời sau cũng được nhiều phước báo, và sinh trong cảnh giới sáng sủa, nhẹ nhàng. VI. QUYẾT-NGHI 1. Có người nghi: - Chư Tăng chi tụng kinh chú nguyện làm sao vong-linh siêu độ được? Ðáp: Tinh-thần của người ta rất mạnh, mỗi khi chúng ta tập trung tư-tưởng, chăm chú vào một việc gì, thì sẽ thấy sức mạnh của nó phi thường. Kinh nói: “chế tâm nhất xư, vô sự bất biện”; nghĩa là: để tâm định lại một chỗ, thì không việc gì là không thành tựu. Chúng ta thấy các nhà Thôi-miên, dùng tinh-thần sai-sư người đi, đứng, nằm, ngồi v.v… đều được cả. Người thế-gian dụng tâm còn làm được như thế, huống chi chư Tăng trì trai giữ giới thanh-tịnh tu-hành, tất nhiên tinh-thần phải sáng-suốt, mạnh mẽ hơn. Như thế mà các vị lại tập-trung tư-tưởng, thành-tâm chú nguyện thì vong-linh quyết nhờ sức mạnh của chư Tăng mà được siêu sanh. Lại nữa, Phật và Bồ-tát sẵn có lòng từ-bi tế-độ, thương tất cả chúng-sinh như mẹ thương con. Chúng ta cảm, thì lo gì các Ngài không ứng hiện ? Cũng như mặt trăng luôn luôn sẵn có ánh sáng, nếu nước hồ không xao động và lóng trong, thì trăng kia sẽ chiếu xuống tận đáy hồ. 2. Có người hỏi: - “Y như lời Phật dạy trong kinh Vu-Lan, thì phải sắm cho đủ các thứ thực-phẩm và vật-dụng quý báu để cúng-dường chư Tăng. Như thế thì đối với những kẻ nghèo hèn làm sao lo được? Ðáp: Bổn ý của Phật dạy chúng ta là phải chí thành và tận lực trong việc lo sắm mà thôi, chứ không phải người nào cũng sắm đủ những thứ ấy. Ðối với những kẻ nghèo khó, nếu họ đã tận lực mà chỉ mua được một nén hương hay dĩa quả, nhưng có lòng chí thành, thì cũng đủ lắm rồi. Trái lại, nếu có người sắm dư giả các vật mà chưa chí-thành, thì cũng chưa có thể gọi là đầy đủ. 3. Có người hỏi: - Ngài Mục-Kiền-Liên thần-thông bực nhất, tự mình có thể cứu vớt cha mẹ được, cần gì phải cần đến chư Tăng? Cùng như ông quan lớn trong xứ, đủ thế lực, có thể cứu bà con có tội được rồi, cần gì phải nhờ đến các quan khác? Ðáp: Bà Thanh-Ðề bị tội khổ, do trước kia tâm bà gây nên. Hôm nay nhờ Ngài Mục-Kiền-Liên là con hiếu thảo, sắm các lễ vật cúng-dường Phật, Tăng, lúc ấy bà sanh lòng hoan-hỷ cũng muốn cúng-dường Phật, Tăng. Do đổi niệm bỏn-sẻn, trở lại tâm rộng-rãi, mà bà được giải-thoát. Nếu như chỉ nhờ đức chúng Tăng mà tâm bà không hoan-hỷ mở rộng, thì cũng khó mà cứu vớt được. C. KẾT-LUẬN: Chúng ta đã rõ biết hiệu quả tốt đẹp của lễ Vu-lan. Vậy chúng ta nên noi theo gương của Ngài Ðại-hiếu Mục-Kiền-Liên mà báo hiếu, thì chắc-chắn cha mẹ hiện-tại và bảy đời trước đều được thoát khổ ngạ quỉ u-đồ, và hưởng vui giải-thoát. Chuyện “Mục-Liên, Thanh-Ðề” không có gì là hoang-đường, huyền-bí, mà là một hiện-tượng có thể giải-thích được. Ðó là do lòng hiếu thảo chí-thành của người con và công-đức trì trai, giữ giới thanh-tịnh trong ba tháng hạ, thúc liễm tu-hành của chư Tăng, thành tâm chú nguyện, nên có sức mạnh cảm thông và kích-thích đến tâm hồn người đau khổ, làm cho họ thức-tỉnh cơn mê, xoay chuyển tâm này, mà họ thoát khỏi sự hình phạt đau khổ mà trước kia chính cũng do cái tâm ấy tạo ra. Trong kinh có nói: “Tâm có thể tạo nghiệp, mà tâm cũng có thể chuyển nghiệp”. Kìa, như nhà thôi miên học, chỉ tập trung tư-tưởng mà còn có thể xoay chuyển sự vật được, huống chi sự chú nguyện của chư Tăng, là kết-tinh của bao nhiêu phước đức trí-huệ, thanh-tịnh, lại không thông-cảm đến nguời ở chốn tội khổ hay sao? Nghiệp-lực sâu thẳm vô-biên, thì tự lực và nguyện lực cũng dõng-mãnh vô-lượng, có thể chuyển được tâm người tạo nghiệp, đập vở được lao ngục xiềng xích khổ hình ở chốn u-đồ. Pháp Vu-Lan này chính là phương-pháp thần-diệu để cứu rỗi vong-linh cha mẹ trong cảnh khổ tối tăm. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng: báo hiếu không phải chỉ đợi khi cha mẹ đã khuất bóng và mỗi năm chỉ một lần cử hành lễ Vu-Lan là đủ. Người con chí hiếu, bao giờ cũng vui sướng khi thấy cha mẹ còn ở bên mình và tận lực phụng dưỡng cha mẹ, để cha mẹ được thảnh thơi về cả hai phương-diện vật-chất và tinh-thần. Như thế mới khỏi hối-hận và than-thở như Thầy Tử-Lộ: “Mộc dục tịnh nhi phong bất đình! Tử dục dưỡng nhi thân bất tại”. (Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng! Con muốn nuôi dưỡng báo hiếu mà cha mẹ chẳng còn sống). |