BÀI THỨ NĂM
I. Nan nghi: NẾu cái “thẤy” là mình, thì tâm này là
ai?
A-Nan thưa Phật:
- Bạch Thế-Tôn! Nếu “cái thấy” này thật là “tâm” con, thì thân tâm của con hiện
nay đây là ai? Và nếu “cái thấy” thật của con, thì nó phải hiện ở trước, khiến cho
con thấy được nó.
- Lại nữa, thân tâm của con hiện nay đây, biết phân-biệt được nó (cái thấy), còn
nó không biết phân-biệt được thân-tâm con. Xin đức Thế-Tôn mở lòng đại-bi chỉ dạy
cho kẻ chưa ngộ.
II. CÁI THẤY RỜI TẤT CẢ HÌNH TƯỚNG
Phật dạy A-Nan:
- Ông nói “cái thấy” phải ở trước mặt để ông thấy”; nói như vậy không phải, vì nếu
“cái thấy” thật ở trước mặt ông, ông thấy được nó, thì “cái thấy” đó ở chỗ nào phải
có nhất-định và phải chỉ ra được.
- Nay ông ngồi trong rừng Kỳ-đà, xem các cảnh vật, đưa tay chỉ ra từng món: chỗ
im-mát kia là rừng cây, cái sáng chiếu nọ là mặt nhựt, nơi ngăn-ngại này là vách,
chỗ trống đó là hư-không; cho đến cỏ cây hoa lá, các vật lớn nhỏ tuy khác, song
đều có hình-tướng, có thể chỉ ra được cả. Còn “cái thấy” nếu nó thật ở trước mắt
ông, thì ông nên lấy tay chỉ chắc-chắn, cái nào là cái “thấy”. Nếu hư-không không
là cái “thấy”, thì cái gì là hư-không? Còn nếu cảnh vật là cái “thấy”, thì cái gì
là cảnh vật? Ðối với các cảnh vật sum-la vạn-tượng, ông nên chín-chắn phân-tích
rõ-ràng, rồi chỉ cho ta xem, cái nào là cái “thấy” cũng như chỉ các vật, không có
lầm lộn.
A-Nan thưa:
- Bạch Thế-Tôn! Con mở tầm con mắt và đưa tay chỉ khắp tất cả, thì đều là “vật”
chớ không có cái nào là cái “thấy”. Dù cho bực Bồ-tát cũng không thể phân-tích ở
nơi muôn vật để chỉ riêng cái “thấy” ra được; huống chi chúng con là hàng sơ-học
Thinh-văn, làm sao chỉ được.
Phật dạy:
- Phải lắm!
LƯỢC GIẢI
Tâm không phải các hình-tướng, cũng như vàng không phải là vòng, kiềng, xoa, xuyến
v.v…
III. CÁI THẤY TỨC TẤT CẢ PHÁP.
Phật dạy rằng:
- Này A-Nan! Như lời ông nói: “trong các cảnh vật, không thể chỉ riêng cái “thấy”
ra được”; vậy nay ông đứng trước các cảnh vật chỉ lại coi, cái nào không phải là
cái “thấy”?
A-Nan thưa:
- Con hiện đang xem tất cả các cảnh vật, không biết cái nào không phải là cái “thấy”.
Nếu rừng cây kia không phải cái “thấy”, thời làm sao thấy được rừng cây. Còn rừng
cây là cái “thấy”, thì sao gọi là rừng cây. Lại nữa, hư-không nếu không phải là
cái “thấy”, thì làm sao thấy được hư-không. Còn nếu hư-không tức là cái “thấy”,
thì sao lại gọi là hư-không. Con chín-chắn suy-nghĩ: Cái nào cũng là cái “thấy”
cả.
Phật dạy:
- Phải lắm!
Khi đó đại-chúng nghe lời Phật nói như vậy đều hoang-mang lo sợ, vì không biết nghĩa
ấy thế nào.
LƯỢC GIẢI
Tâm đã sanh ra các pháp, thì pháp nào cũng là tâm cả; cũng như vàng đã làm ra tất
cả đồ trang-sức thì món nào cũng là vàng cả.
IV. PhẬt trẤn-tĩnh đẠi-chúng.
Phật thấy A-Nan và đại-chúng hoang-mang, sợ-hãi, nên sanh tâm thương-xót, liền an-ủi
A-Nan và đại-chúng rằng:
- Như-Lai nói chơn-thật, chẳng dối trá, không phải như chúng ngoại-đạo Mạc-già-lê,
nói năng rối loạn không nhận-định đâu. Các ông nên bình-tĩnh và chín-chắn suy-xét
lại, chớ để cho Như-Lai thêm lòng thường-xót.
V. Ngài Văn-Thù đỨng lên thưa hỎi.
Khi ấy Ngài Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-vương-tử thương cả bốn chúng, nên đứng dậy lạy Phật,
cung-kính chắp tay và thưa rằng:
- Bạch Thế-Tôn! Trong đại-chúng đây chưa hiểu cái nghĩa: Các cảnh vật là cái “thấy”
hay không phải cái “thấy”.
- Bạch Thế-Tôn! Các cảnh vật hiện-tiền đây, nếu là cái “thấy”, thì phải chỉ ra được;
còn nếu không phải cái “thấy”, thì đáng lẽ không thể thấy được. Vì trong đại-chúng
không hiểu nghĩa này thế nào, cho nên mới sợ-hãi, hoang-mang. Cúi xin đức Như-Lai
duỗi lòng từ-bi chỉ dạy cho biết: Các cảnh vật hiện-tiền đây, cùng với cái “thấy”
này, nguyên là cái gì? (trong đây không có cái “phải” và “không phải”).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này lý thâm, nên Ngài Văn-Thù mới đứng lên thưa hỏi; người học phải xét nhiều
mới hiểu được.
Nói cảnh vật và cái thấy, tức là chỉ cả vật-chất với tinh-thần đồng một thể-tánh
chơn-tâm. Vì chơn-tâm thì không thể suy-nghĩ và luận-bàn được, phải tự ngộ mà thôi,
nên nói “nguyên nó là cái gì?” (vì không thể nói ra được). Bởi nó rời đối-đãi thị
phi, nên nói “trong đó không có cái phải và không phải”.
VI. PhẬt dẠy: Cái thẤy không có “ThỊ” và “Phi-thỊ”.
Phật kêu Ngài Văn-Thù và đại-chúng, dạy rằng:
- Mười phương các đức Phật và các vị đại Bồ-tát an-trụ trong chơn-tâm rồi, thời
không còn thấy thật có các cảnh vật là căn, trần, thức nữa. Cái thấy cùng với cảnh
vật bị thấy, nguyên là “chơn-tâm”. Ðã là chơn-tâm, thì đâu còn có “phải” hay “không
phải” nữa. Như ông là Văn-Thù, vậy có thể nói ông là “thật” Văn-Thù hay “không thật”
Văn-Thù được không?
Văn-Thù thưa:
- Bạch Thế-Tôn! Chính như thế đó, con là Văn-Thù rồi, thì không thể nó “thật Văn-Thù”
được; vì nếu nói “thật Văn-Thù”, thì phải có ông Văn-Thù giả (thứ hai). Song con
nay đã là Văn-Thù rồi, thì không thể nói “thật” hay “không thật” được.
LƯỢC GIẢI
Chơn-tâm không hai, nên không còn thị và phi đối-đãi; không thể nói “quấy” đã đành,
mà nói “phải” cũng không được nữa. Bởi vì nó ngoài vòng đối-đãi, cũng như ông Văn-Thù
là Văn-Thù, không thể nói “thật” hay “không thật” được.
Phật dạy:
- Cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy cũng lại như vậy, đều là thể-tánh chơn-tâm,
vọng-động mà có ra: thấy nghe và các cảnh vật. Nó cũng như mặt trăng thứ hai, đâu
có gì mà nói “phải” hay “không phải”. Nghĩa là chỉ có một mặt trăng chánh, (chơn-tâm)
trong đó không có cái “phải” mặt trăng hay “không phải” mặt trăng.
- Nay ông thấy có cái “thấy” và “cảnh vật bị thấy” đó là vọng-tưởng; còn đối với
thể-tánh chơn-tâm, thì không còn nói phải hay không phải được. Bởi thế nên chơn-tâm
nó ra ngoài cái phạm-vi “chỉ bày” và “không chỉ bày” của ông rồi.
LƯỢC GIẢI
Suy nghĩ không tới, nói năng không nhằm. Ðại-ý đoạn này nói: Chỉ có một chơn-tâm,
không thể nói phải hay không phải, nó vượt ra ngoài sự đối-đãi và nói năng phân-biệt.
Vì vọng-động mà sanh ra có vật-chất (cảnh) và tinh-thần (tâm). Cũng như chỉ có một
mặt trăng chánh, không thể nói phải mặt trăng hay không phải mặt trăng; vì lòa mà
thấy in tuồng có mặt trăng thứ hai.
VII. A-Nan nghi: Chơn-tâm đỒng vỚi thuYẾt TỰ-nhiên CỦa
ngoẠi-đẠo.
A-Nan thưa:
- Bạch Thế-Tôn! Ngày trước Phật ở tại núi Lăng-già, có dạy cho ông Ðại-huệ Bồ-tát
v.v… rằng: “Các chúng ngoại-đạo kia thường chủ-trương thuyết “tự-nhiên sanh”, còn
ta thời nói “các pháp do nhơn-duyên” nên không đồng với thuyết của các ngoại-đạo
kia”.
- Hôm nay nghe lời Phật dạy, thì con hiểu cái “chơn-tâm” này in như tự-nhiên mà
có, chớ không phải “nhơn-duyên sanh”; vì nó rời tất cả các vọng-tưởng điên-đảo,
không sanh, không diệt. Cúi xin Phật từ-bi chỉ dạy cho con ngộ được chơn-tâm thường-trụ
này, mà không lạc vào thuyết “tự-nhiên” của các tà-đạo.
LƯỢC GIẢI
Cái chơn-tâm này, nó tuyệt đối-đãi, ngoài thị và phi. Nếu còn chấp có, không, thị
và phi, nhơn-duyên hay tự-nhiên v.v… đều không đúng cả. Song chúng-sanh vì cái mê-chấp
nhiều đời, cũng như cây chuối nhiều bẹ, lột hết bẹ này, thì bày ra bẹ khác. Phật
vừa bác xong thị và phi, thì ông A-Nan liền chấp nhơn-duyên và tự-nhiên v.v… Than
ôi! Lưới mê nhiều đời chồng-chập, thật khó trong một lúc vẫy-vùng ra khởi!
VIII. PhẬt bác cái chẤp “tâm tỰ-nhiên mà có”.
Phật dạy rằng:
- Ta đã dùng nhiều phương-tiện và thành-thật chỉ dạy cho ông tường tất như thế,
mà ông cũng chưa hiểu ngộ, lại còn mê-muội chấp là tự-nhiên nữa.
- A-Nan, nếu thật tự-nhiên, thì ông phải chỉ rõ cái “thấy” này, lấy gì làm cái thể
tự-nhiên của nó? Lấy cái “sáng” làm tự-nhiên hay lấy cái “tối” làm tự-nhiên? Lấy
cái “trống không” làm tự-nhiên hay lấy cái “ngăn bít” v.v… làm tự-nhiên?
- A-Nan, nếu lấy cái “sáng” cho là tự-nhiên cái thể của nó như vậy, thì khi tối
lại, đáng lẽ ông không thấy được tối. Cho đến lấy cái “tối” v.v… làm thể tự-nhiên
của nó, thì khi sáng đến, cái thấy của ông phải mất, làm sao thấy được cái sáng
v.v…
IX. A-Nan nghi: Tâm do nhơn-duyên sanh.
A-nan thưa:
- Bạch Thế-Tôn! Cái thấy này nếu không phải tự-nhiên mà có, thì chắc do nhơn-duyên
sanh. Con hiểu như vậy chẳng biết có phải không? Xin đức Thế-Tôn từ-bi chỉ dạy.
X. PhẬt bác cái chẤp “nhơn-duyên sanh”.
Phật bác rằng:
- Ông nói “nhơn-duyên sanh”. Vậy nay ta hỏi ông, cái thấy này là nhơn-duyên cái
sáng mà có, hay nhơn-duyên cái tối mà có? nhơn-duyên cái trống không mà có, hay
nhơn-duyên cái ngăn bít v.v… mà có?
- A-Nan, nếu nhơn-duyên cái sáng mà có, thì khi tối đến, ông phải không thấy được
cái tối; còn nhơn-duyên cái tối, cái trống, cái bít v.v… cũng vậy.
XI. PhẬt dẠy: Chơn-tâm không thỂ dùng tâm suy-nghĩ hay
lỜi nói luẬn bàn đưỢc.
Phật dạy:
- A-Nan! Ông phải biết: Cái thấy (tâm) này không phải “nhơn”, không phải “duyên”,
không phải “tự-nhiên”, và cũng không phải “không tự-nhiên”, không cái “phi”, không
cái “bất phi”, không cái “thị”, không cái “phi thị”; nó rời tất cả tướng, mà chính
là tất cả pháp. Như thế thời ông làm sao để tâm suy-nghĩ cho tới, dùng lời nói luận-bàn
cho kịp và gọi nó bằng thứ gì được. (Ly ngôn-thuyết tướng, ly tâm-duyên tướng ly,
danh-tự tướng).
- Nếu ông để tâm suy-nghĩ và dùng lời nói luận-bàn, thì cũng như người quơ tay chụp
bắt hư-không; chỉ thêm mệt nhọc, chớ làm sao mà chụp bắt hư-không cho được.
LƯỢC GIẢI
Ðến chỗ cao-siêu tuyệt-diệu thì không suy-nghĩ, luận-bàn được; nếu còn suy-nghĩ
luận-bàn được thì không phải là cao-siêu tuyệt-diệu.
Bởi thế nên đức Thích-Ca đóng cửa thất tại nước Ma-kiệt, ông Duy-ma-cật ngậm miệng
tại thành Tỳ-da, Tổ Ðạt-ma ngồi tại chùa Thiếu-lâm, day mặt vô vách 9 năm, không
nói một lời, đều vì cái lý đạo cao-siêu, không thể luận-bàn được.
XII. A-Nan trỞ lẠi nghi “nhơn-duyên sanh”.
A-nan thưa Phật:
- Bạch Thế-Tôn! Cái “thấy” này nếu không phải “nhơn”, không phải “duyên”, tại sao
đức Thế-Tôn thường cùng với các thầy Tỳ-kheo nói: “Cái thấy phải đủ bốn duyên mới
sanh”; như nhơn hư-không, ánh-sáng, tâm và con mắt mới sanh. Vậy nghĩa này thế nào?
Phật dạy rằng:
- Này A-Nan, ta nói thuyết nhơn-duyên, là đứng về phần sự-tướng (hiện-tượng), chỉ
các pháp trong thế-gian mà nói, chớ không phải chỉ cho lý-tánh tuyệt-đối (bản-thể)
vậy.
LƯỢC GIẢI
Về phương-diện pháp-tướng (mượn danh-từ triết-học nói cho dễ hiểu, gọi là phần hiện-tượng)
nói về “thức”, thì Phật nói có căn, trần, thức và nhơn-duyên v.v… Còn đứng về phương-diện
pháp-tánh (mượn danh-từ triết-học nói cho dễ hiểu, gọi là phần bản-thể) thì không
còn danh-tướng, nói năng kêu gọi hay suy-nghĩ được.
Bởi thế nên trong kinh, Phật nói: “Ðạo ta cao-siêu không thể suy-nghĩ và luận-bàn
được”. Kinh này là nói về phần lý-tánh tuyệt-đối.
XIII. PhẬt gẠn hỎi lẠi “cái thẤy” đỂ chỈ rõ chơn-tâm.
Phật hỏi:
- Này A-Nan! Bây giờ ta hỏi ông: Người đời thường nói “tôi thấy”. Vậy thế nào là
“thấy” và thế nào là “không thấy”?
A-Nan thưa:
- Người đời nhơn có ánh-sáng mới thấy được các vật,
thì gọi là “thấy”; còn không có ánh-sáng, chẳng thấy các vật, thì bảo rằng “không
thấy”.
Phật dạy:
- Nếu không có ánh-sáng mà bảo là không thấy, thì khi tối đến đáng lẽ ông cũng không
thấy được cái “tối”? Còn như ông thấy được cái “tối”, thì khi đó chẳng qua không
có ánh-sáng mà thôi, chớ sao lại nói “không thấy”?
- Lại nữa, nếu khi tối ông không thấy được cái “sáng”, mà ông cho là không thấy,
thì khi sáng ông không thấy được cái “tối”, đáng lẽ cũng phải bảo là không thấy
mới phải. Như vậy, thời “tối” và “sáng” cả hai đều phải bảo là “không thấy” hết.
- Bởi thế, ông nên biết: “tối” và “sáng” hai món trần-tướng nó tự thay-đổi với nhau,
còn cái “thấy” của ông lúc nào cũng có. Vậy thì thấy “tối” và “sáng” đều gọi là
thấy cả, tại sao khi thấy tối, ông nói “không thấy”?
XIV. PhẬt chỈ cái “thẤy” không phẢi vỌng, song chưa
phẢi là chơn-tâm.
(Ðoạn này nguyên ở trước, nay dịch-giả đem lại đây cho thuận nghĩa).
Phật dạy A-Nan rằng:
- Cái “thấy” của ông đó, không phải là vọng, song chưa phải là “chơn-tâm”. Nó cũng
như mặt trăng thứ hai (do lòa con mắt mà có) tuy không phải bóng mặt trăng dưới
nước, nhưng chưa phải là mặt trăng chánh.
LƯỢC GIẢI
Mặt trăng chánh là dụ cho chơn-tâm, mặt trăng thứ hai là dụ cho cái thấy, nghe v.v…
các cảm-giác về phần trực-giác. Bóng mặt trăng là dụ cho vọng-tưởng phân-biệt.
Ðại-ý đoạn này Phật nói cái “thấy” không phải vọng-tâm, nhưng cũng chưa phải là
chơn-tâm, nghĩa là nó gần với chơn-tâm mà thôi. Cũng như mặt trăng thứ hai do lòa
con mắt mà có; nó không phải bóng mặt trăng dưới nước, nhưng cũng chưa phải là mặt
trăng chánh.
Phật dạy:
- A-Nan, ông phải biết: khi ông thấy sáng, thì cái “thấy” của ông không phải là
cái “sáng”; khi ông thấy tối, cái “thấy” của ông không phải là cái “tối”: khi ông
thấy trống không, cái thấy của ông không phải là cái “trống không”; khi thấy ngăn
bít, cái “thấy” của ông cũng không phải là cái “ngăn bít”.
LƯỢC GIẢI
Nói “cái thấy” chớ kỳ thật là chỉ chung cho cả “cái nghe, hay, biết”. Nói “sáng,
tối, trống, bít” là chỉ chung cho các cảnh vật.
Ðại-ý đoạn này nói: Khi thấy các cảnh vật, thì “cái thấy” không phải là cảnh
vật.
XV. PhẬt chỈ tâm lẦn thỨ sáu.
Phật dạy:
- Ông đã hiểu rõ bốn nghĩa này rồi, ông nên hiểu thêm lên một từng nữa: Khi “chơn-tâm
đã khởi ra cái “thấy” (các cảm-giác), thì cái “thấy” không phải là “chơn-tâm”; cái
“thấy” còn cách biệt với chơn-tâm, (vì còn một lớp mê), cái “thấy” không thể bì
kịp với “chơn-tâm”. (Ðoạn này Phật mới chỉ chính cái chơn-tâm).
LƯỢC GIẢI
Mượn danh-từ triết-học nói cho dễ hiểu: Khi bản-thể (tâm) khởi ra hiện-tượng (các
cảm-giác), thì hiện-tượng không phải là bản-thể, hiện-tượng còn cách-biệt với bản-thể,
hiện-tượng không thể bì kịp bản-thể. Cũng như khi nước đã biến thành sóng, thì sóng
không phải hoàn-toàn là nước, sóng còn sai-biệt với nước (vì bị gió xao-động), sóng
không thể bì kịp với nước.
Ðành rằng “tâm” cùng với cái “thấy” v.v… không hai, nhưng vì mê nên tâm biến thành
ra các cảm-giác thấy nghe hay biết. Lúc bấy giờ cái thấy nghe hay biết, không phải
là chơn-tâm. Ngộ rồi thì cái thấy nghe hay biết mới phải “chơn-tâm”. Song khi chưa
ngộ thì không thể nói cái thấy, nghe v.v… các cảm-giác là chơn-tâm được.
- Như thế thời, ông làm sao lại nói là “nhơn-duyên, tự-nhiên, hòa-hợp và phi hòa-hợp”
được. Các ông là hàng Thinh-văn, trí-thức hẹp-hòi, không thông-hiểu được thật-tướng
(chơn-tâm). Ta đã chỉ dạy nhiều lần rồi, vậy các ông nên khôn-khéo suy-nghĩ và cố-gắng
tiến lên tu-hành, chớ nên giải-đãi trên con đường Bồ-đề.