BÀI THỨ SÁU
I.
A-Nan không hiỂu hỎi PhẬt.
A-Nan thưa Phật:
- Bạch Thế-Tôn, vừa rồi Phật nói cái nghĩa
“nhơn-duyên, tự-nhiên, hòa-hiệp và bất hòa-hiệp”, chúng con còn chưa hiểu, nay lại
nghe Phật nói đến nghĩa “tâm sanh ra cái thấy, cái thấy không phải tâm v.v…” chúng
con lại càng thêm mù mịt nữa. Cúi xin đức Như-Lai duỗi lòng từ-bi, chỉ dạy cho chúng
con ngộ được chơn-tâm thanh-tịnh, sáng-suốt này.
II. PhẬt
chỈ dẠy hai món vỌng thẤy.
Phật dạy:
- A-Nan, ông phải chín-chắn nghe, ta sẽ
vì các ông phân-biệt chỉ dạy, cũng khiến cho chúng-sanh đời sau ngộ được đạo-quả
Bồ-đề.
- Này A-Nan, tất cả chúng-sanh bị sanh-tử
luân-hồi trong thế-gian, đều do hai món điên-đảo phân-biệt vọng thấy, tức nơi đó
phát sanh ra nghiệp, rồi theo nghiệp mà chịu khổ luân-hồi.
LƯỢC GIẢI
Từ nơi tâm vọng-động sanh ra các nghiệp,
rồi theo các nghiệp đó mà chịu quả khổ hay vui. Cũng như người từ mê mà sanh ra
ngủ, từ nơi ngủ mà hiện ra có các cảnh vật vui, buồn rồi tự chịu lấy buồn, vui.
- Thế nào là hai món?
1. Cái điên-đảo vọng thấy thuộc về nghiệp riêng của cá-nhơn
2. Cái điên-đảo vọng thấy thuộc về nghiệp chung của đồng-loại.
III. DỤ vỀ nghiỆp
riêng cỦA cá-nhân.
- A-Nan, sao gọi là cái điên-đảo vọng
thấy thuộc về nghiệp riêng của cá-nhân? Dụ như người nhặm con mắt, ban đêm dòm đèn
thấy có vầng tròn lòa đỏ năm màu (ngũ-uẩn).
- Ý ông nghĩ sao? Cái vầng đỏ năm màu
ấy, của đèn hay của cái thấy?
- A-Nan, nếu ông nói “của đèn” thì sao
những người không nhặm mắt, họ chẳng thấy vầng đỏ, mà duy có người nhặm mắt mới
thấy thôi?
- Nếu nói “cái vầng đỏ đó là của cái thấy”,
thì cái thấy đã thành vầng đỏ; vậy người nhặm con mắt thấy vầng đỏ, thì bảo là thấy
cái gì? (vì cái thấy đã thành vầng đỏ rồi, thì không thể nói thấy vầng đỏ nữa được).
- Lại nữa, nếu ông chấp “cái vầng đỏ rời
đèn riêng có”, thời đáng lẽ ông xem bàn ghế chung-quanh đều có vầng đỏ cả. Còn nói
“vầng đỏ rời cái thấy riêng có”, thì không cần con mắt thấy. Vậy tại sao người nhặm
mắt thấy có vầng đỏ?
- Thế nên phải biết: Cái sáng là ở nơi
đèn, cái thấy vì bệnh mắt mà có bóng lòa. Cái “bóng lòa” và cái “thấy lòa” đều do
nơi mắt nhặm. Còn cái thấy được lòa nhặm, thì “cái thấy” đó không phải nhặm.
- Nên không thể nói: Cái vầng đỏ này là
“đèn” hay “thấy” và “không phải đèn” hay “không phải thấy”, mà chính do mắt nhặm
hiện ra.
LƯỢC GIẢI
Ðại-ý đoạn này Phật nói: Vì vô-minh vọng-động
(nhặm) mà thấy có các cảnh vật hiện ra như vậy (lòa đỏ). Chớ không phải do chơn-lý
(dụ đèn) hay chơn-trí (dụ cái thấy) và cũng không thể nói nó ngoài chơn-lý và chơn-trí.
IV. DỤ vỀ nghiỆp
chung cỦa đỒng-loẠi.
- A-Nan, sao gọi là nghiệp chung vọng-thấy
của đồng-loại? Dụ như trong thế-giới này có nhiều nước. Nhưng chỉ có một nước vì
dân-chúng đồng tạo ác-nghiệp, nên đều cảm thấy có các điềm không tôt, như sao chổi,
sao phướn, hoặc hai mặt trời, hai mặt trăng v.v… Còn dân-chúng ở các nước khác thời
đều không thấy và cũng không nghe.
V. LẤy nghiỆp
riêng đỂ chỈ rõ nghiỆp chung.
- Này A-Nan, như người nhặm con mắt, vì
nghiệp riêng của họ, nên “vọng thấy” cái đèn có vầng đỏ hiện ra. Tại con mắt nhặm
mới thành ra lòa, chớ “cái thấy” đó không lòa.
- So-sánh như các ông ngày hôm nay, thấy
có núi, sông, thế-giới và chúng-sanh đó, đều do cái “nhặm lòa từ vô-thỉ” (vô-minh
vọng-động từ vô-thỉ) cho nên mới thấy có các cảnh vật hiện ra như vậy.
- Các ông nên biết: “mắt thấy” (kiến)
với “cảnh vật bị thấy” (kiến-duyên) hiện-tiền đây, đều do cái “vọng thấy” (giác-minh)
hiện ra. Cái “vọng thấy” đó (giác-kiến) nó lòa nhặm, chớ cái chơn-tâm không lòa
nhặm.
- Cái chơn-tâm biết được cái lòa nhặm
đó (giác sở giác cảnh) nó không phải ở trong lòa nhặm (giác phi sảnh trung).
- Như thế thời làm sao bảo cái chơn-tâm
đó là các cảm-giác thấy, nghe, hay, biết được ư? Ðây chính là cái nghĩa: “Tâm sanh
ra cái thấy, cái thấy không phải tâm v.v…” ông mới vừa hỏi trước.
- Thế nên, nay ông thấy “tôi”, thấy “ông”
cùng thấy “thế-giới” và “chúng-sanh”, đều do ông lòa nhặm (vô-minh vọng-động) mà
thấy như vậy, chớ không phải cái thấy (tâm) đó nó lòa nhặm. Bởi tánh nó không lòa
nhặm, cho nên không thể bảo nó (chơn-tâm) là “cái thấy”.
LƯỢC GIẢI
Ðại-ý đoạn này nói: Từ nơi chơn-tâm, vì
vô-minh vọng-động, nên khởi ra có cann và cảnh (cái thấy và cái bị thấy). Vì các
cảm-giác: thấy, nghe, hay, biết cùng với các cảnh vật bị thấy, đều do vô-minh vọng-động
hiện ra cả. Còn “chơn-tâm” vì không phải là vô-minh, nên không thể gọi nó (chơn-tâm)
là các cảm-giác: thấy, nghe, hay, biết được.
Ðây là giải lại cái nghĩa ở đoạn trước
nói: “Chơn-tâm sanh ra cái thấy v.v… (kiến kiến chi thời) cái thấy v.v… không phải
là chơn-tâm (kiến phi thị kiến). Cái thấy nó còn xa cách chơn-tâm v.v…”
Nên nhớ: Lỗi tại “vô-minh vọng-động”,
chớ không phải lỗi tại cái “thấy” và “cảnh bị thấy”. Cũng như tại nhặm chớ không
phải lỗi tại “cái thấy” của con mắt và “bóng lòa”.
VI. PhẬt kẾt-thÚc
lẠi.
- A-Nan, một người nhặm mắt, vì nghiệp
riêng của họ, nên họ thấy có cái vầng đỏ; cũng như dân-chúng trong một nước, do
ác-nghiệp chung tạo của họ, nên đồng thấy có những điềm không lành hiện ra.
- Lên một từng nữa, là toàn cả chúng-sanh
trong mười phương thế-giới ngày nay đây, đều do “vô-minh vọng-động từ vô-thỉ” nên
đồng vọng thấy có thế-giới chúng-sanh hiện ra vậy.
- Từ nơi chơn-tâm, vì hư-vọng nên hiện
ra các cảm-giác thấy, nghe, hay, biết. Do hòa-hiệp vọng sanh ra, rồi cũng do hòa-hiệp
vọng diệt đi.
- Nếu các ông xa-lìa được các duyên hòa-hiệp
cùng bất hòa-hiệp, và trừ hết các nhơn sanh-tử rồi, thì cái chơn-tâm thường-trụ
thanh-tịnh, bất sanh bất diệt hiện ra, và các ông được viên-mãn đạo Bồ-đề.
LƯỢC GIẢI
Phật lấy một người nhặm để dụ một nước
thấy điềm ác; lấy một nước để dụ chúng-sanh trong mười phương. Vì vô-minh vọng-động
từ vô-thỉ, nên thấy có chúng-sinh và thế-giới. Cũng như người nhặm mắt thấy có vầng
đỏ. Nếu biết nhặm thì vầng đỏ không còn, lúc bấy giờ con mắt lành mạnh tự hiện.
Cũng như vô-minh vọng-tưởng hết, thì thế-giới
chung-sanh chẳng còn. Lúc bấy giờ chơn-tâm sáng-suốt hiện ra, được viên-mãn đạo
Bồ-đề, thế gọi là bực Ðại-giác.
VII. PhẬt chỈ các pháp đỀu vỀ
chơn-tâm.
- A-Nan, ông còn chưa hiểu: các trần-tướng
huyễn-hóa đó là từ nơi tâm sanh ra, rồi cũng tùy tâm diệt mất. (Ðương xứ xuất sanh,
tùy xứ diệt tận).
- Cái “tướng” (hiện-tượng) của nó thì
huyễn-vọng, còn “tánh” (bản-thể) của nó lại chơn-thường.
- Nào là: 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới,
đều do nhơn-duyên hư-vọng hòa-hiệp tạm có sanh; nhơn-duyên biệt-ly, hư-vọng tạm
gọi là diệt.
- Các ông không biết: nào sanh, diệt,
khứ, lai đều gốc ở nơi chơn-tâm thường-trụ. Trong thể-tánh chơn-như thường-trụ này,
tìm kiếm cái khứ, lai, mê, ngộ, sanh-tử v.v… quyết không thể được.
LƯỢC GIẢI
Hiện-tượng các pháp thì vọng, mà bản-thể
của các pháp lại chơn. Ðứng về phần hình-tướng (hiện-tượng) các pháp thì thấy có
sanh, diệt, khứ, lai. Còn đứng về phần bản-tánh (bản-thể) thời tìm cái khứ, lai,
sanh, diệt, mê, ngộ không thể được.
VIII. A-Nan nghi cái nghĩa bỐn đẠi
hòa-hiỆp sanh.
A-Nan thưa Phật rằng:
- Bạch Thế-Tôn, trước kia Ngài thường
nói “tất cả các vật trong thế-gian đều do bốn đại hòa-hiệp sanh”. Tại sao ngày hôm
nay, Như-Lai bác bỏ cả thuyết “nhơn-duyên” và “tự-nhiên”. Chúng con không biết nghĩa
này thế nào? Cúi xin đức Từ-tôn chỉ dạy nghĩa trung-đạo rốt-ráo cho chúng con.
LƯỢC GIẢI
Phật đã nhiều lần bác cả nhơn-duyên và
tự-nhiên, mà ông A-Nan vẫn còn chấp mãi. Cũng vì lưới nghi nhiều lớp, không thể
một lần lột hết được!
IX. PhẬT quỞ A-Nan
hỌc nhiỀu mà không hiỂu.
Phật dạy rằng:
- Ông trước kia nhàm-chán quả Thinh-văn,
Duyên-giác là thuộc về Tiểu-thừa, phát tâm cầu đạo vô-thượng Bồ-đề, cho nên ta mới
vì ông chỉ bày nghĩa lý cao-thượng thứ nhứt (đệ nhứt nghĩa-đế).
- Tại sao nay ông còn đem lời nói tầm-thường
trong thế-gian, là thuyết “nhơn-duyên” để tự ràng buộc lấy mình?
- Ông tuy học nhiều mà không hiểu chi
cả; cũng như người trong thế-gian nói đến tên món thuốc này, món thuốc kia, đến
khi thuốc thật đem trước mắt, thì họ không thể phân-biệt được, thật đáng thương-xót!
- Ông nên chăm-chú nghe, nay ta sẽ vì
các ông, cùng với những người tu về Ðại-thừa đời sau, mà phân-biệt chỉ dạy, để cho
các ông thông hiểu được thật-tướng (chơn-tâm).
A-Nan yên-lặng, lóng nghe lời Phật dạy.
X. PhẬt
nói cái tánh cỦa bỐn đẠi phi hòa-hiỆp.
- A-Nan, ông nói rằng: “Do bốn đại hòa-hiệp
sanh ra tất cả vật”. Này A-Nan, nếu cái thể-tánh (bản-thể) của bốn đại kia không
có hòa-hiệp, thời không thể hòa với cái gì được; cũng như hư-không không hòa-hiệp
với các vật. Còn nó có hòa-hiệp, thời đồng với vật biến-hóa (hiện-tượng sanh-diệt)
nghĩa là, trước sau thành nhau, như nước thành băng, băng trở lại thành nước. Sanh-diệt
nối nhau, sanh tử, tử sanh, sanh sanh tử tử, xoay tròn như vòng lửa, không dứt đoạn.
LƯỢC GIẢI
Ông A-Nan lấy “hình-tướng” (hiện-tượng)
của tứ-đại có hư-vọng hòa-hiệp mà hỏi. Còn Phật thì chỉ cái “thể-tánh” (bản-thể)
của tứ-đại không hòa-hiệp, cũng như hư-không, để giải-thích. Nếu nó (tánh) có hòa-hiệp
thì cũng đồng như các tướng (tứ-đại) có sanh-diệt.
XI. ÐẤt tỪ chơn-tâm
biẾn-hiỆn.
- A-Nan, ông xem đất kia, lớn là quả địa-cầu,
còn nhỏ là hạt bụi (vi-trần). Chẻ hạt bụi rất nhỏ (cực-vi) ra làm bảy phần, thì
thành hạt bụi lân-hư (gần với hư-không). Cái giáp ranh của sắc-tướng tột đến chừng
đó. Nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhứt này (lân-hư) ra một lần nữa, thì thành hư-không. Thế
thì rõ-ràng hư-không do chẻ bụi mà có, không phải do hòa-hiệp sanh.
- Này A-Nan, như lời ông nói: “Do hòa-hiệp
sanh ra các vật trong thế-gian”. Vậy ông thử xem một hạt bụi nhỏ nhứt này (lân-hư),
phải dùng bao nhiêu hư-không hòa-hiệp lại mới thành ra nó? Không lẽ hạt bụi nhỏ
nhứt này, hòa-hiệp lại thành ra hạt bụi nhỏ nhứt (lân-hư trần).
LƯỢC GIẢI
Nếu nói “các vật do hòa-hiệp thành” thì
hạt bụi nhỏ nhứt này cũng phải do hòa-hiệp mà thành.
Vậy thì lấy cái gì hòa-hiệp thành hạt
bụi này. Nếu nói “lấy hư-không hòa-hiệp lại thành” thì phi-lý. Còn không lấy hư-không
thì lấy cái gì hòa-hiệp thành ra nó? (Vì ông A-Nan chấp các pháp do hòa-hiệp mà
sanh). Nếu nói lấy “sắc-tướng hòa-hiệp” thì thành ra một vật lớn, chớ không phải
là thành hạt bụi nhỏ nhứt (lân-hư trần) nữa.
- Lại nữa, nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhứt (lân-hư)
ra thành hư-không, thì rõ-ràng hư-không không phải do hòa-hiệp thành. Nếu nói do
hòa-hiệp thành, thì phải dùng bao nhiêu sắc-tướng hòa-hiệp, thì phải dùng bao nhiêu
sắc-tướng hòa-hiệp lại mới thành hư-không? không lẽ hư-không tự hòa-hiệp thành ra
hư-không?
LƯỢC GIẢI
Vì chấp “các pháp do hòa-hiệp mà có” thì
hư-không cũng phải do hòa-hiệp mà có. Vậy hư-không lấy cái gì hòa-hiệp mà thành?
không lẽ lấy hư-không hòa-hiệp lại thành hư-không. Ðoạn trên Phật chỉ hạt bụi, đoạn
này Phật chỉ hư-không, đều phi hòa-hiệp cả.
- Vậy nên biết: khi sắc hòa-hiệp thì không
phải hư-không, khi hư-không hòa-hiệp thì không phải là sắc. Cái sắc còn có thể chia
chẻ ra được, chớ hư-không làm sao mà hòa-hiệp cho được?
LƯỢC GIẢI
Ðại-ý đoạn này, Phật nói các pháp hư-vọng
như huyễn, như hóa, phi hòa, phi hiệp; do chúng-sanh mê-vọng mà thấy in tuồng như
thật.
- Các ông không biết: trong chơn-tâm,
tánh (bản-thể) của sắc là chơn-không (tâm); tánh (bản-thể) của không là chơn-sắc
(tâm). Nó vốn sẵn thanh-tịnh, khắp giáp cả pháp-giới; tùy theo tâm của chúng-sanh
tạo nghiệp và phân-biệt như thế nào, thì nó ứng-hiện ra như thế ấy. Chúng-sanh không
biết, chấp là nhơn-duyên sanh, hay tự-nhiên có v.v… những cái chấp đó, đều do thức-tâm
phân-biệt so-đo cả. Phàm có nói năng, phân-biệt, thì đều không đúng.
LƯỢC GIẢI
Thật ra các vật ở giữa này, không có nhứt-định
vật gì thật là vật gì cả. Tuy theo tâm của chúng-sanh tạo nghiệp như thế nào, thì
nó hiện ra như thế ấy. Ðối với chúng-sanh đó, nó thật hay đúng với loài đó mà thôi.
Như chén nước đây, nếu đồng-nghiệp loài
người thì thấy thật là nước; còn đối với con vi-trùng trong chén nước, thì không
phải là nước nữa rồi, mà chính là nhà cửa của nó.
Hay như cái bàn gỗ này, đối với loài người
thì thấy nó là cái bàn thật, chớ đối với con mọt, thì lại không thành cái bàn nữa,
mà thật là món ăn của chúng.
Thêm một tỷ-dụ nữa, như thân này đối với
loài người, thì thấy thật là thân người, chớ đối với con vi-trùng trong thân, thì
không thành cái thân nữa, mà thật là một thế-giới bao-la vô-tận của nó.
Vậy thì thấy thật nước hay thật chỗ ở,
thật cái bàn gỗ hay thật món ăn, thấy thật thân người hay bầu thế-giới, đều tùy
theo tâm-niệm phân-biệt, nhận-định riêng của mỗi loài như thế nào, thì nó thành
ra thế nấy. Nên trong kinh nói: “Tùy tâm biến hiện”.
Chúng ta thường thấy: Khi nào tâm ta vui
vẻ, thì thấy cảnh vật chung-quanh đều vui, cho đến ngủ chiêm-bao cũng thấy cảnh
vui hiện ra. Trái lại, khi nào tâm ta buồn thì thấy cảnh vật chung-quanh buồn; mỗi
mỗi đều do tâm mình biến hiện ra cả, nên có câu:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”
XII. LỬa tỪ chơn-tâm biẾn-hiỆn.
- A-Nan, lửa không có tự-thể, nó chỉ gá
các duyên mà sanh. Ông hãy xem những nhà ở trong thành này, khi họ muốn nấu ăn,
thì họ cầm cái kiến (dương-toại) ra trước mặt trời lấy lửa. Này A-Nan, lửa ấy nếu
nhơn hòa-hiệp mà có, thì nó từ trong cái kiến sanh, từ bùi-nhùi ra, hay từ nơi mặt
nhựt đến?
- Nếu lửa từ mặt nhựt đến, cháy được bùi-nhùi
trong tay của ông, thì những cây rừng và các cảnh vật nói vừa trải qua đó, đáng
lẽ đều phải bị cháy cả.
- Còn nói “lửa từ trong kiến sanh ra cháy
cái bùi-nhùi”, sao cái kiến người cầm đó không chấy? và cả bàn tay của người cầm
cũng không cháy?
- Còn nói “lửa từ trong bùi-nhùi sanh”
thì cần gì phải có bàn tay cầm cái kiến hứng ánh sáng mặt trời, mới có lửa?
- Ông nên chín-chắn xem xét: cái kiến
ở nơi tay người cầm, mặt nhựt thời trên trời, bùi-nhùi nằm tại đất. Cái kiến với
mặt trời vẫn xa nhau, không phải hòa, không phải hiệp. Vậy lửa này từ đâu mà cháy
đến đây? không lẽ lửa không từ đâu cả mà tự có?
- Các ông không biết trong chơn-tâm, tánh
(bản-thể) của lửa (tâm) là thật không; tánh (bản-thể) của không (tâm) mới là thật
lửa. Nó vẫn thanh-tịnh khắp giáp cả pháp-giới, tùy theo tâm của chúng-sanh phân-biệt
như thế nào, thì nó hiện ra như thế nấy.
- Nếu một người cầm kiến lấy lửa, thì
một chỗ đó có lửa hiện ra. Nếu tất cả người trong thế-gian đều cầm kiến lấy lửa,
thì khắp cả trong thế-gian đều có lửa hiện ra; chỉ tùy theo vọng-nghiệp của chúng-sanh
mà hiện đó thôi, chớ không có xứ-sở gì! Người thế-gian không biết, dùng thức-tâm
hư-vọng phân-biệt mê lầm chấp cho nhơn-duyên sanh, hoặc tự-nhiên có v.v… Phàm có
nói năng, phân-biệt đều không đúng sự thật.
LƯỢC GIẢI
Ðại-ý như đoạn trên (đất).
XIII. NưỚc tỪ chơn-tâm biẾn-hiỆn
- A-Nan, tánh nước không định, đứng chảy
chẳng thường. Như trong thành Thất-La, các vị đại huyễn sư, như ông Ca-tỳ-la-tiên,
Chiết-ca-la-tiên, Bác-đầu-ma và Ha-tát-đa v.v… Các vị này thường lấy nước mặt trăng
hòa với thuốc. Họ chờ đêm nào trăng sáng tỏ, cầm hột châu phương-chư hứng dưới mặt
trăng, thì có nước chảy ra ở thau.
- Vậy nước ấy từ hột châu sanh? Hay từ
hư-không ra? Hay từ mặt trăng đến?
- A-Nan, nếu từ mặt trăng đến, nó làm
cho hột châu ra nước; vậy thời từ phương xa đến đây, trong khi trải qua cây cối
các cảnh vật, nó phải đều làm cho ngập ướt cả, nếu thế thì cần gì phải có hột châu
phương-chư (hột châu lấy nước)? Song sự thật các ảnh vật không ngập ướt, thì rõ-ràng
nước ấy không phải từ mặt trăng đến.
- Còn nói “nước từ hột châu ra” thì hột
châu nếu đã chảy ra được nước, đáng lẽ lúc nào nó cũng tự chảy ra được nước, cần
gì phải chờ nửa đêm hứng mặt trăng sáng mới có nước?
- Còn nói “nước từ hư-không sanh” thì
hư-không vô biên, nước cũng phải vô biên; vậy thì từ nhơn-gian cho đến thiên-thượng,
tất cả cỏ cây, đất-đai đều bị ngập lụt cả.
- Ông nên chín-chắn xem-xét: Mặt trăng
ở trên trời, hột châu ở tay người cầm, cái thau hứng nước lại để dưới đất. Mặt trăng
với hột châu cách xa nhau, không phải hòa cũng không phải hiệp, vậy nước đó từ đâu
mà đến? không lẽ không nhơn đâu mà tự có.
- Ông không biết trong chơn-tâm, tánh
(bản-thể) của nước (tâm) thật không; tánh (bản-thể) của không (tâm) thật nước, vốn
sẵn thanh-tịnh khắp giáp cả pháp-giới, tùy tâm của chúng-sanh phân-biệt như thế
nào, thì nó ứng-hiện như thế ấy. Một người cầm hột châu lấy nước, thì một chỗ đó
có nước. Nếu tất cả người trong thế-gian đều cầm hột châu lấy nước, thì khắp cả
trong thế-gian đều có nước. Nước tùy theo nghiệp của chúng-sanh mà phát hiện ra;
nó không có phương hướng xứ-sở gì. Người trong thế-gian không biết, lầm chấp nhơn-duyên
sanh, hoặc tự-nhiên có, đều do thức-tâm vọng-chấp, phân-biệt cả. Phàm có nói năng,
luận-bàn thế nào, cũng đều không trúng cả.
XIV. Gió tỪ chơn-tâm biẾn-hiỆN.
- A-Nan, tánh gió không định, động và
tịnh chẳng thường. Như ông thường đắp y đi vào đại-chúng, cái chéo y của ông phất
qua người gần bên, thì có một chút gió quạt đến mặt người. Vậy gió này từ chéo y
ra, hay từ hư-không đến, hay từ nơi mặt người sanh?
- A-Nan, nếu gió này từ cái y ra, thì
cái y đã thành gió, vậy nó phải bay bổng rời khỏi thân ông, và ông đắp y thành ra
đắp gió hay sao? Ta nay xổ cái y ra, ông hãy thử xem coi gió ở chỗ nào? Chẳng lẽ
trong y có chỗ cất (để) gió.
- Nếu gió từ hư-không sanh, vậy thời khi
ông không động cái y, sao chẳng có gió? Và hư-không thường còn, thì gió cũng phải
thường sanh, nếu khi nào không có gió, thì hư-không phải diệt. Song thật ra gió
có thể diệt (hết) chớ hư-không làm sao diệt được.
- Nếu hư-không có sanh-diệt, thời không
gọi là hư-không; còn gọi là hư-không thời làm sao lại sanh ra gió được.
- Còn ông nói “giớ từ nơi mặt người bị
phất sanh”; nếu thật thế, thì gió phải phất đến mặt ông mới phải, tại sao nó phất
ngược trở lại mặt người bị phất.
- Ông nên chín-chắn xem xét: Cái y là
ở nơi ông, cái mặt là thuộc về người kia (bị phất), còn hư-không thì tự yên-lặng;
gió (động) với hư-không (lặng) tánh khác nhau, không hòa không hiệp. Vậy gió từ
nơi đâu mà phát động đến đây? Không lẽ không từ nơi đâu mà tự có.
- Các ông không biết trong chơn-tâm; tánh
(bản-thể) của gió (tâm) là thật không; tánh (bản-thể) của không (tâm) là thật gió,
vốn sẵn thanh-tịnh, khắp giáp cả pháp-giới, tùy tâm chúng-sanh phân-biệt như thế
nào, thời nó hiện ra như thế nấy. Một người phất y, thời có một chút gió sanh ra.
Nếu tất cả mọi người trong thế-giới đều phất y, thì cả thế-giới đều có gió, theo
nghiệp của chúng-sanh mà phát hiện, không có phương hướng, xứ-sở gì. Thế-gian không
biết, khởi thức-tâm phân-biệt so-đo, lầm chấp là nhơn-duyên sanh, hoặc tự-nhiên
có v.v… đều không đúng cả.