BÀI THỨ TƯ
I.
A-Nan cẦu Phật chỉ cái “điên đảo”.
Khi ấy A-Nan đứng dậy lạy Phật, kính-cẩn bạch
rằng:
- Nếu cái thấy, nghe,
không sanh-diệt này là “tâm” của chúng con, tại sao trước kia đức Thế-Tôn lại quở
chúng con “bỏ mất chơn-tâm, làm việc điên đảo?”
-
Cúi xin đức Như-Lai mở lòng từ-bi chỉ dạy cho chúng con biết cái “điên-đảo” ở chỗ
nào.
II.
Phật dẪn tỶ-dỤ đỂ chỈ cái “điên đẢo”.
Khi đó Phật xuôi cánh tay chỉ xuống đất, hỏi ông A-Nan rằng:
- Ông thấy cánh tay
của ta như thế này, là xuôi hay ngược?
A-Nan thưa:
- Các ngườI trong
thế-gian cho như thế là ngược; còn con thì không biết thế nào là ngược và xuôi.
Phật lại hỏi ông A-Nan:
- Các người trong
thế-gian cho như thế là ngược, thì như thế nào mới là xuôi?
A-Nan thưa:
- Ðức Như-Lai đưa
cánh tay lên, năm ngón chỉ thẳng lên hư-không, như thế là xuôi.
Phật liền đưa cánh tay lên, rồi kêu A-Nan mà bảo
rằng:
- Cũng một cánh tay
này chứ không chi khác, chẳng qua chỉ đổi đầu làm đuôi, đổi đuôi làm đầu mà thôi,
thế mà người thế-gian, chấp thế này là ngược và thế kia là xuôi; điên-đảo là đấy!
đấy là điên-đảo.
Ðem một cánh tay này mà so-sánh, để chỉ rõ thêm
ra: Thân Như-Lai gọi là thân Phật (giác-ngộ), thân các ông gọi là thân điên-đảo
(chúng-sanh). Vậy ông nên chín-chắn
xem xét thân ông và thân Phật, cái “điên-đảo” (chúng-sanh) ở chỗ nào?
LƯỢC GIẢI
Ý Phật chỉ: đồng một thể tanh
chơn tâm, vì vô minh vọng động, chấp đây thật là Phật, kia thật là chúng sanh.
Ðó là “điên-đảo”.
III.
Phật chỈ ngay cái “điên đẢo”.
Khi ấy A-Nan và đại-chúng ngó Phật sửng-sốt, dôi mắt không nháy, vì không biết
ở nơi thân này và tâm này, cái “điên-đảo” ở chỗ nào!
Phật thấy vậy thương xót, mới dạy tiếp:
-
Ta thường nói “các pháp đều duy tâm biến-hiện, cho đến thân và tâm ông ngày nay,
cũng đều là vật ở trong chơn-tâm hiện ra”.
Tại sao các ông lại bỏ cái bản-thể chơn-tâm đi.
Các ông vẫn ở trong ngộ (chơn-tâm) mà trở lại đành ôm lấy cái mê (vọng) làm
mình (điên-đảo là đó), thật đáng buồn thương!
IV.
PhẬt chỈ,
vì mê nên có thẾ-giỚi và chúng-sanh.
- Này A-Nan, bởi vô-minh
vọng-động nên biến-hiện ra có hư-không, thế-giới và chúng-sanh.
Trong thân chúng-sanh vì có vọng tưởng lẫn lộn, nên nó vọng động leo chuyển
bên trong (như vượn, như ngựa); khi các giác-quan mở ra, thì nó rong ruổi theo trần-cảnh
bên ngoài (như vượn sút xiềng, ngựa tông chuồng).
Rồi các ông chấp cái tướng vọng-tưởng lăng-xăng bên trong đó, cho là tâm
tánh của mình. Một phen chấp nó làm
tâm, thì không sao khỏi mê lầm cho rằng tâm ở trong thân.
- Chứ đâu biết rằng:
Thân này, tâm này, cho đến núi, sông, thế-giới và hư-không đều là vật trong chơn-tâm
hiện ra cả.
LƯỢC GIẢI
Như người đương thức (dụ chơn-tâm) bỗng chốc buồn
ngủ (dụ vô-minh). Khi ngủ chiêm-bao
thấy có hư-không thế-giới, chúng-sanh và mình (dụ vô-minh sanh ra thế-giới và chúng-sanh),
rồi chấp cái thân và tâm trong chiêm-bao kia là mình, mà bỏ cả cảnh thức-tỉnh rộng
lớn này đi v.v… (dụ như vì mê muội nên nhận cái vọng-thân vọng-tâm này làm mình,
cảnh này là thật mà bỏ cả toàn-thể chơn-tâm sáng-suốt rộng lớn kia).
- Cái chơn-tâm rộng
lớn như vậy, các ông lại bỏ đi không nhận, trở lại chấp cái vọng-thân, vọng-tâm
này cho là thật của mình. Cũng như
toàn-thể bể cả rộng khơi trong-trẻo kia không nhận, trở lại chấp một bòn bọt nhỏ-nhen
cho là toàn-thể bể cả, thật là điên-đảo!
Các ông là một trong vô-số người mê muội, thật đáng thương-xót!
-
Như, cũng một cánh tay của ta, mà chấp thế này là ngược, thế kia là xuôi, cũng đồng
một loại điên-đảo!
V.
A-Nan đã hiỂu đưỢc chơn-tâm song chưa
dám nhẬn.
Ông A-Nan vì thấy lòng từ-bi tha-thiết của Phật
thương xót hết sức nồng-hậu, chỉ dạy rất thâm-trầm, nên cảm-động rơi nước mắt, kính
cẩn bạch Phật rằng:
- Con tuy nhờ Phật
chỉ dạy cho hiểu được chơn-tâm, nhưng hiện nay con vẫn còn dùng “cái tâm phân-biệt”
(vọng-tâm) nghe lời Phật nói, rồi ngộ suông cái chơn-tâm này mà thôi, nên chưa dám
nhận chắc là tâm của con. Vậy xin Phật
thương xót chỉ dạy cho con hết nghi-ngờ, để trở về với đạo vô-thượng.
Phật dạy:
- Nếu các ông lấy
vọng-tâm nghe chánh-pháp (chơn-tâm) thì chánh-pháp này cũng trở thành ra vọng, không
thể nghe đặng chánh-pháp.
- Các ông nên biết:
Ta cũng như người dùng ngón tay mà xem mặt trăng.
Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, thì chẳng những không thấy được mặt trăng,
mà cũng không biết luôn cả ngón tay.
Vì cho ngón tay là mặt trăng, thì không những không biết ngón tay là gì, mà cũng
không biết thế nào là tối và sáng.
Vì mê chấp ngón tay là mặt trăng, thì tối và sáng làm sao rõ được.
- Nay nếu các
ông chấp cái “phân biệt” (vọng) làm tâm của mình, thì cái tâm này, khi rời tiếng
nói pháp của ta, cũng vẫn còn phân biệt, thế mới phải thật là tâm của các ông (chủ).
Nếu rời tiếng nói pháp của ta ra, mà
các ông không còn phân biệt nữa, thì đó là vọng (khách) chớ không phải thật tâm
(chủ) của các ông rồi.
- Cũng như người khách,
chỉ ngủ nghờ rồi đi, chớ không ở lại được.
Nếu thật là chủ nhà, thì ở luôn chớ không còn đi đâu nữa.
- Cũng thế, nếu thật
là tâm của ông, thì không đi đâu cả.
Tại sao khi rời tiếng nói pháp của ta, thì ông không còn phân biệt nữa?
- Không những cái
“phân biệt” về tiếng, cho đến cái “phân biệt” về sắc, hương, vị, xúc và pháp, nếu
rời sáu trần-cảnh ra, thì nó đều không còn phân biệt nữa.
Thế thì cái tâm của ông đồng là khách, có chỗ trả về.
Vậy cái nào là “chủ”, thật là tâm của ông?
A-Nan hỏi Phật:
-
Nếu cái tâm của con có chỗ trả về (trần cảnh qua thì tâm phân biệt biết) thì tại
sao đức Như-Lai lại nói: “cái chơn-tâm của con không trả về đâu cả?”
Xin Phật mở lòng từ-bi chỉ dạy cho.
VI.
PhẬt chỈ tâm lẦn thỨ tư.
Phật dạy:
- Này A-Nan, tất cả
cảnh vật trong thế-gian không ngoài: sáng, tối, trống, bít, trong, đục v.v…
Nay ta đem các vật này, cái nào trả
về cho bản-nguyên của cái nấy.
- Như ánh sáng thì
ta trả về cho mặt-nhựt, vì không mặt nhựt thì không sáng; còn tối thì trả về cho
ban đêm, thông trả về cho trống, bít trả về cho vách, trong trả về cho tịnh, đục
trả về cho bụi v.v… Cái nào trả về
cho cái nấy rồi; còn cái “thấy” của ông thấy các cảnh vật đó, ông muốn trả nó về
đâu? Nếu trả về cho cái sáng, thì khi
tối đến đáng lẽ ông không thấy tối.
Nếu trả nó về cho cái tối, thì khi sáng đến ông cũng phải không thấy sáng; còn trả
về cho trống, bít v.v… cũng thế.
- Rõ ràng các cảnh
vật tuy có thiên sai vạn biệt, mà “cái thấy” của ông thật không sai khác.
Như vậy, cái nào có thể trả được, thì cái đó là khách, tự nhiên không phải
là ông rồi; còn cái nào ông không thể trả được, thì cái đó là chủ, quyết-định của
ông chớ ai?
- Cái tâm của ông
mầu nhiệm sáng suốt và sẵn-sàng như vậy, tại sao ông lại tự mê muội đi, trở lại
nhận cái vọng làm mình, đành chịu nổi chìm trong biển khổ sanh-tử, thật đáng thương
xót!
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật phân-tách các
trần-tướng, cái nào trả về cái nấy, để cho rõ “cái thấy” không trả về đâu được.
Ðó là “Chủ”, là “Tâm” của chúng ta vậy.
VII.
A-Nan còn nghi hỎi PhẬt.
A-Nan thưa:
- Bạch Thế-Tôn, con tuy biết cái “thấy” này, không
trả về đâu được, nhưng làm sao biết chắc nó là “chơn tâm” của con?
VIII.
Phật chỉ tâm lẦn thỨ năm.
Phật dạy rằng:
- Này A-Nan, nay ông thử xem trước mắt, tất cả các
cảnh vật sum-la vạn-tượng, nào là sông, đất nước v.v…
Ông nên lựa riêng ra cái nào thuộc về cảnh vật, còn cái nào là tâm ông.
- Này A-Nan, cùng tột tầm mắt thấy của ông, ngó
lên thì thấy mặt trời, mặt trăng, đó là vật chớ không phải ông; xem rộng ra, núi,
sông, cây cối, cỏ hoa, người thú; cho đến gió bụi, chim chóc cũng đều là vật chớ
không phải ông.
- A-Nan, tất cả các cảnh vật, mặc dù có cao thấp,
xa gần, ngàn sai muôn khác, song cũng đều là “vật bị thấy” của ông cả.
Các vật loại tuy có sai khác, mà cái “thấy” của ông không khác.
Thế thì cái “thấy” này chính là “tâm” của ông chứ không phải vật.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật chỉ tâm rất rõ ràng.
IX. Phật chỈ thêm, cái thẤy là tâm chỚ không phẢi
vẬt.
- Nếu cái “thấy” này là vật, thì ông cũng có
thể thấy được cái “thấy” của ta.
- Nếu ông và ta cùng thấy một vật, (bị thấy)
mà ông cho là thấy được “cái thấy” của ta, thời khi ta không thấy, sao ông chẳng
thấy được cái “không thấy” của ta? (vì cái thấy không phải vật nên chẳng thấy được
nó).
- Nếu ông nói:
thấy được cái “không thấy” của ta, thì ông thấy cái gì đó, chớ quyết-định không
phải là thấy cái “không thấy” (tâm) của ta.
Nếu ông không thấy được cái “không thấy” của ta, thì quyết định nó là “tâm”, đương
nhiên không phải vật rồi.
- Lại nữa, nếu cái thấy là vật, thì khi ông thấy
nó, nó cũng phải thấy được ông.
Như vậy, thời tâm, vật lộn lạo; và trong thế-gian này, không thể phân biệt được
loài hữu-tình (tâm), và loài vô-tình (vật).
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật nói “vật” thì bị thấy, còn “tâm” thì không bị thấy.
Bởi cái thấy là “tâm”, nên không thể
thấy được nó.
- Này A-Nan, khi ông thấy các cảnh-vật, cái “thấy”
của ông khắp giáp tất cả, cái thấy đó không phải của ta và của người khác, thì quyết
định của ông chớ ai?
- Rất rõ ràng như thế, tại sao ông còn nghi “chơn
tâm” của ông? Cái “chơn tâm” của
ông cũng vậy, sao ông không tự nhận lấy, lại đi cầu ta chỉ “chơn tâm” cho nữa?
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này, Phật chỉ tâm rõ ràng hơn hết.
X. A-Nan nghi cái
thẤy có lỚn, nhỎ, đỨt, nỐi.
A-Nan thưa Phật:
- Bạch Thế-Tôn, nếu cái “thấy” này quyết định là
tâm của con, chớ không phải của ai, thì khi con xem vũ-trụ bao la, thấy mặt trời,
mặt trăng v.v… lúc bấy giờ cái thấy của con rộng lớn khắp giáp cả hư-không.
Khi con trở vào trong nhà, thì chỉ
thấy nội trong nhà thôi.
- Vậy cái thấy này nó phải rút nhỏ lại, chun vào
nhà, hay là khi và nhà, nó bị tường vách cắt đứt, nên còn nhỏ như thế?
Chúng con không biết nghĩa này thế nào, xin Phật từ-bi chỉ dạy.
XI.
PhẬt dẠy: trẦn-cẢnh có lỚn nhỎ, cái thẤy không có lỚn nhỎ.
Phật dạy:
- Này A-Nan, trong thế-gian tất cả cảnh vật có
lớn nhỏ trong ngoài, tốt xấu v.v… đều thuộc về trần-cảnh hiện-tiền cả, chớ không
phải cái thấy của ông có lớn nhỏ, tóp lại hay nới ra.
- Cũng như trong cái hộp vuông, thì thấy hư-không
vuông, trong cái chén tròn, thấy hư-không tròn.
Vì chén tròn, hộp vuông, nên thấy hư-không có vuông và tròn, chớ không
phải cái hư-không thật có tướng vuông tròn.
- Nếu hư-không quyết định là vuông, thì khi để
cái chén tròn, đáng lẽ không thấy hư-không tròn.
- Trái lại, nếu hư-không quyết định là tròn,
thì khi để hộp vuông, đáng lẽ không thấy nó vuông.
- Vậy nên biết: vuông, tròn là tại đồ vật, chớ không
phải hư-không có vuông, tròn. Nếu phá
hết các đồ vuông, tròn, thì ông sẽ thấy hư-không không có tướng vuông, tròn.
Không phải bỏ hư-không vuông mà
có hư-không tròn, hay trừ hư-không tròn mà có hư-không vuông.
- Cái “thấy” của ông cũng thế, không có vuông
tròn hay lớn nhỏ, mà lớn nhỏ, vuông tròn là tại cảnh vật.
- Nếu ông cho khi vào nhà, cái “thấy” quyết định
phải tóp nhỏ lại, thì khi ông ra ngoài sân xem mặt nhựt, ông phải kéo giãn nó ra
đến mặt nhựt hay sao?
- Lại nữa, khi vào nhà, nếu ông cho cái thấy
bị cắt đứt đi, thì khi soi vách trống ra một lỗ, thấy được bên ngoài, sao cái thấy
của ông không có dấu nối?
- Nghĩa đó rất rõ ràng như vậy, chớ có chi lạ
mà ông nói không biết.
- A-Nan, tất cả chúng-sanh từ vô thỉ đến giờ vì mê
mình (tâm) làm vật, bỏ mất chơn tâm của mình, bị cảnh vật xoay chuyển (chi phối)
nên thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, tốt xấu v.v…
Nếu ai lay chuyển xoay được cảnh vật, thân tâm đặng sáng suốt viên-mãn, thì đồng
với chư Phật. Lúc bấy giờ không
rời đạo-tràng, (chỗ này) mà ở trên đầu một mảy lông, có thể chứa đựng khắp cả mười
phương thế-giới.
LƯỢC GIẢI
Từ nơi thể-tánh chơn-tâm, vì vô-minh vọng-động, sanh ra có hư-không thế-giới,
chúng-sanh cùng các cảnh vật, nên gọi “mê mình làm vật”.
Khi có cảnh vật rồi, cứ theo đó mà phân biệt xấu tốt, lớn nhỏ, mừng giận
v.v… nên nói “bị vật chuyển xoay”.
Ðến khi hết vô-minh vọng-động, trở lại với thể-tánh chơn-tâm, thì các cảnh
vật ấy không còn; như người thức giấc chiêm-bao, thì cảnh chiêm-bao kia hết, nên
nói “xoay chuyển vật” là thế.
Lúc bấy giờ, một sợi lông hay mười phương thế-giới cũng đều là chơn-tâm cả.
Ðã đồng là chơn-tâm, thì không còn thấy
thế-giới lớn hơn sợi lông, hay sợi lông nhỏ hơn thế-giới, vì đồng một thể-tánh,
nên nói: “Trên đầu một sợi lông, có thể chứa đựng mười phương thế-giới”.
Ðoạn này lý thâm, phải suy-nghĩ nhiều mới hiểu.