BÀI THỨ
HAI
PHẦN CHÁNH TÔN
1. ÔNG TU-BỒ ÐỀ HỎ I PHẬT HAI CÂU QUAN-TRỌNG
Khi đó, ở trong
đại chúng, ông Trưởng-lão Tu-Bồ-Ðề đứng dậy, vén tay áo bên hữu, gối bên hữu qùy
xuống, chấp tay cung-kính và bạch Phật rằng:
-
Hy-hữu thay! Ðức Thế-Tôn! Ngài thường nhớ nghĩ và bảo hộ các vị Bồ-tát.
Ngài rất hay khéo dạy bảo các vị Bồ-tát.
-
Bạch Thế-Tôn! Nếu có người phát tâm Bồ-đề muốn cầu Phật quả, thì :
o
Làm sao hàng phục vọng-tâm?
o
Và làm sao an trụ chơn-tâm?
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này, ông Trưởng-lão Tu-Bồ-Ðề hỏi Phật hai câu quan trọng, để mở đầu Phật nói
kinh Bát-Nhã.
“Hàng phục vọng tâm” và “an trụ chơn tâm” là vấn-đề khó nhất. Nhưng nếu người
phát tâm Bồ-đề, mà không “hàng phục được vọng tâm” và “an trụ chơn tâm” thì không
bao giờ chứng đặng quả Phật.
Vậy làm sao hàng phục vọng tâm?
Và làm sao an trụ chơn tâm?
Ðó là điều quan trọng, mà ông Trưởng-lão Tu-Bồ-Ðề, đã đại-diện cho toàn thể đại
chúng, đứng lên cung kính hỏi Phật.
Lãnh hội được diệu nghĩa của kinh này nên Ngài Xuyên-Thiên-Sư có làm bài tụng rằng:
Nguyên văn (dịch âm):
Nễ hỷ ngã bất hỷ
Quân bi ngã bất bi
Nhạn tư phi hàn bắc
Yến ức cựu sào qui
Thu nguyệt xuân hoa vô hạn ý
Cá trung chi hứa tự gia tri.
Dịch nghĩa:
Người vui ta chẳng vui
Người buồn ta chẳng buồn
Nhạn bay về biển Bắc
Yến nhớ ổ trời Nam
Xuân hoa thu nguyệt vô cùng ý
Lãnh hội thế nào tự mình thôi (biết).
ÐẠI Ý
Bài này diễn tả lý Bát-Nhã vô-trụ.
Hai câu đầu nói về “vô trụ vô chấp”. Ba câu sau tả cảnh vật thiên-nhiên, như
nhạn bay về biển Bắc, chim Yến nhớ ổ bay về phương Nam, mùa Xuân đến trăm hoa đua
nở, mùa Thu thì mặt trăng sáng tỏ.
Bức tranh tuyệt diệu của vũ-trụ bao la, vô cùng ý tứ, biểu lộ “Bát-Nhã chơn-như”.
Tự người ngộ lấy.
2. PHẬT KHEN ÔNG TU-BỒ-ÐỀ VÀ HỨA SẼ KHAI-THỊ
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Lời ông vừa hỏi, thật là quí lắm! Vậy ông hãy chăm chú nghe,
ta sẽ vì ông chỉ dạy.
Phật dạy tiếp:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu có người phát tâm Bồ-đề, muốn cầu quả Phật, thì phải như lời
ta dạy đây mà “hàng phục vọng tâm” và “an trụ chơn tâm”.
LƯỢC GIẢI
Nhờ ông Tu-Bồ-Ðề thưa thỉnh, mà Phật nói kinh Bát-Nhã, để chỉ dạy cho chúng-sanh
tỏ ngộ: Tự mình có tảnh “Bát-Nhã” và phải tự trở về với tánh “Bát-Nhã” của
mình; nên Phật khen câu hỏi của ông Tu-Bồ-Ðề thật là quí lắm!
Nhưng, ngộ nhập được lý “Bát-Nhã”, không phải người vọng-tâm loạn ý mà nhập được;
phải người dọn mình sạch sẽ, thành tâm định ý, mới lãnh hội được, nên Phật dạy:
“Phải chăm chú nghe”. Và Phật hứa sẽ dạy phương pháp “hàng phục vọng tâm và
an trụ chơn tâm” như sau.
GIẢI DANH TỪ
Tâm Bồ-đề:
Bồ-đề là dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa là “Giác” tức là giác-ngộ. Tâm Bồ-đề
là Tâm giác-ngộ, sáng suốt; nói dễ hiểu hơn là “Tâm Phật” (Phật cũng dịch là Giác).
Người phát tâm Phật để cầu quả Phật. Tâm Bồ-đề là “nhơn Phật”, quả Bồ-đề là
“quả Phật”.
Tu-Bồ-Ðề:
Tên của một vị đệ-tử Phật. Trung-hoa dịch có 3 nghĩa: 1. - Thiện-hiện
(khéo thị hiện), 2. - Thiện-kiết (điềm lành), 3. – Không sanh (ông ưa nhập “không-định”
và ngộ lý “chơn không” thứ nhứt).
Ông Tu-Bồ-Ð ề, bên trong thì ẩn hạnh Bồ-tát, bên ngoài lại hiện tướng Thinh-văn;
địa vị cao, phước đức lớn, nên gọi là “Trưởng-lão”.
Thế-Tôn:
Phật là một đấng mà tất cả chúng-sanh trong thế-gian và xuất-thế-gian đều tôn kính.
3. PHẬT DẠY BỒ-TÁT ÐỘ SANH KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Các ông phải y như lời ta dạy đây, mà hàng phục vọng-tâm của mình.
-
Tu-Bồ-Ðề! Các vị Ðại Bồ-tát phải độ tất cả các loại chúng-sanh (như loài sanh
trứng, loài sanh con, loài sanh chỗ ẩm-thấp, loài hóa sanh, loài có sắc, loài không
sắc, loài có tưởng, loài không tưởng, loài chẳng phải có tưởng, loài chẳng phải
không tưởng v.v…) đều được nhập Niết-bàn. Bồ-tát tuy độ vô lượng vô
số chúng-sanh như vậy, nhưng không thấy có một chúng-sanh nào được độ. Tại
sao vậy? Nếu Bồ-tát còn thấy có mình độ và chúng-sanh được độ, tức là Bồ-tát
còn chấp bốn tướng (tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng-sanh và tướng thọ-giả) thì
không phải là Bồ-tát.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dạy Bồ-tát độ-sanh, phải dùng trí-huệ Bát-Nhã, phá các vọng-chấp ngã,
nhơn v.v… đó là phương-pháp “hàng phục vọng-tâm”.
Bồ-tát muốn biết mình còn phiền-não vọng-chấp hay không, để diệt trừ, tất nhiên
phải lao mình vào phiền-não; nghĩa là phải nhập thế độ sanh, làm các Phật sự.
Phật dạy Bồ-tát khi nhập thế độ sanh làm các Phật sự, luôn luôn phải dùng trí-huệ
Bát-Nhã phá trừ các chấp ngã, chấp pháp, không còn thấy bốn tướng (ngã, nhơn v.v…)
thì phiền-não vọng-chấp không sanh. Ðó là phương pháp “hàng phục vọng-tâm”.
Nếu Bồ-tát vừa khởi vọng-chấp: “có mình độ và người được độ v.v…”, tức là Bồ-tát
còn ngã, nhơn, bỉ, thử, thì vô số phiền-não đua nhau nổi lên như sóng. Cổ
nhơn nói:
“Nhứt ba tài động, vạn ba tùy”.
Nghĩa là: Một lượng sóng vừa nhô lên, thì trăm ngàn lượng sóng liền theo đó
mà nổi lên.
Nếu Bồ-tát còn vô-minh phiền-não vọng-chấp nổi lên, thì không phải là Bồ-tát; vì
chưa nhập được trí-huệ Bát-Nhã.
Kinh Tứ-thập-nhị chương chép:
“Giáo pháp của ta: “Niệm” mà không trụ chấp nơi niệm, mới thật là “niệm”.
“Làm” mà không trụ chấp nơi làm, mới thật là “làm”. “Nói” mà không trụ chấp
nơi nói, mới thật là “nói”. “Tu” mà không trụ chấp nơi tu, mới thật là “tu”.
“Chứng” mà không trụ chấp nơi chứng, mới thật là “chứng”.
Ðó là tôn-chỉ “vô trụ tướng” của kinh Bát-Nhã.
GIẢI DANH TỪ
Tất cả chúng-sanh chia làm 9 loại:
1. Loài sanh trứng (noãn sanh): như gà, vịt, chim, cò
v.v…
2. Loài sanh con (thai sanh): như người, trâu, bò v.v…
3. Loài sanh nơi ẩm-thấp (thấp sanh): như vi-trùng,
con quăn v.v…
4. Loài hóa sanh
(hóa sanh): như cỏ mục hóa đom-đóm v.v…
5. Loài có hình sắc (hữu sắc): như chúng-sanh ở cõi Dục và cõi
Sắc.
6. Loài không hình sắc (vô sắc): như chúng-sanh ở
cõi Vô-sắc v.v…
7. Loài có tâm tưởng
(hữu tưởng): như chúng-sanh ở cõi trời
hữu-tưởng v.v…
8. Loài không tâm tưởng (vô tưởng):
Như chúng-sanh
ở cõi trời vô-tưởng. Chúng-sanh ở cõi dục, tu định vô-tưởng, được sanh về
cõi trời Vô-tưởng, hưởng thọ 500 kiếp, rồi vẫn trở lại trong vòng sanh-tử luân-hồi.
9. Loài chẳng phải có tưởng và chẳng phải không tưỏng
(phi hữu tưởng, phi vô tưởng):
Như chúng-sanh
ở cõi trời phi phi tưởng xứ, trong cõi Vô-sắc. Chúng-sanh ở cõi này, đồng
với hư-không, không có thân-thể và thế-giới. Họ chỉ có định không có huệ,
thọ đến tám vạn kiếp, rồi trở lại đọa về chỗ không vong.
BỐN TƯỚNG
-
Ngã tướng: chấp có “ta”.
-
Nhơn tướng: chấp có “loài
người”.
-
Chúng-sanh tướng: chấp có
“chúng-sanh”.
-
Thọ-giả tướng: chấp có mạng
sống trong một thời gian.
NIẾT BÀN
Dịch âm của tiếng Phạn “Nirvana”, dịch nghĩa là viên-tịch: Viên-mãn vắng-lặng.
Niết-bàn có bốn loại:
1.
Tánh tịnh Niết-bàn.
2.
Vô trụ xứ Niết-bàn.
3.
Hữu dư Niết-bàn.
4.
Vô dư Niết-bàn.
(Xem đoạn Diệt-đế
trong quyển Tứ-diệu-đế).
4. PHẬT DẠY BỒ-TÁT BỐ-THÍ KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Bồ-tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là
không nên trụ chấp tướng sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp.
Tại sao vậy? Nếu Bồ-tát bố-thí mà không chấp tướng bố-thí, thì phước đức nhiều
lắm, không thể nghĩ bàn.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trên (đoạn 3), Phật dạy Bồ-tát khi độ sanh, phải dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ
“ngã chấp”, tức là không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả.
Ðoạn nầy, Phật dạy Bồ-tát khi bố-thí, cũng phải dùng trí-huệ Bát-Nhã, phá trừ “pháp
chấp”; nghĩa là không chấp tướng sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp.
Ðó là phương-pháp “hàng phục vọng-tâm”.
Bồ-tát làm các Phật sự, như hóa-độ chúng-sanh hay bố-thí v.v… mà tâm còn chấp ngã
chấp pháp, tất nhiên tâm còn phiền-não nhiễm-ô. Nếu đem tâm phiền-não nhiễm-ô
mà làm các Phật sự (phước thiện), thì các Phật sự đó cũng biến thành nhiễm-ô; cũng
như đem đồ nhơ-bẩn mà đựng vật tinh-khiết, thì vật tinh-khiết trở thành nhơ-bẩn,
nên hành-giả chỉ hưởng phước hữu-lậu nhiễm-ô; nghĩa là phước báo nhơn-thiên ở thế-gian,
hưởng có thời hạn; như hư-không bị cuộc hạn trong ly nhỏ.
Trái lại, khi làm các Phật sự, như bố-thí v.v… nếu Bồ-tát dùng trí-huệ Bát-Nhã,
phá trừ chấp ngã, chấp pháp; nghĩa là không chấp mình là người bố-thí, ban ơn (chấp
ngã), kia là kẻ thọ thí, chịu ơn (chấp nhơn), đây là vật bố-thí (chấp pháp), thì
các phiền-não nhiễm-ô không sanh, tâm được thanh-tịnh. Tâm thanh-tịnh tức
là tâm Phật hay tâm chơn-như, rộng-rãi bao la, như mười phương hư-không. Nếu
đem tâm thanh-tịnh mà bố-thí, thì hành-giả được phước vô-lậu thanh-tịnh, rộng lớn
như hư-không, không cùng tận. Cũng như một giọt nước tuy nhỏ (bố-thí ít),
nhưng được hòa vào biển cả (tâm tịnh) thì cũng được biến khắp cả biển, rộng-rãi
bao-la.
Bởi thế nên Phật dạy: Bồ-tát khi bố-thí phải “tam luân không tịch”, nghĩa
là không thấy (chấp) có mình ban ơn, kẻ chịu ơn và vật bố-thí. Như thế mới
gọi là “Bố-thí Ba-la-mật” (Bố-thí rốt-ráo).
5. BỐ-THÍ KHÔNG CHẤP TƯỚNG PHƯỚC NHIỀU NHƯ MƯỜI PHƯƠNG
HƯ-KHÔNG.
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Hư-không ở phương Ðông có thể nghĩ bàn được không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Không thể nghĩ bàn được.
Phật hỏi tiếp:
-
Hư-không phương Tây, phương Nam, phương Bắc, phương Trên, phương Dưới và bốn góc,
có thể nghĩ bàn được không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Không thể nghĩ bàn được.
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Bồ-tát bố-thí, không trụ chấp các tướng, đặng phước đức cũng như
mười phương hư-không, nghĩa là nhiều lắm, không thể nghĩ bàn.\
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này tiếp theo đoạn trên (đoạn 4), Phật dùng mười phương hư-không, để thí dụ
phước đức của người bố-thí không chấp tướng.
Phật dạy, Bồ-tát không chấp tướng bố-thí, hay nói cách khác là đúng như trí-huệ
Bát-Nhã mà làm việc bố-thí, thì được phước đức vô-lậu thanh-tịnh và nhiều như mười
phương hư-không, không có cùng tận.
-
Thế nào là phước hữu-lậu nhiễm-ô, có cùng tận?
-
Và thế nào là phước vô-lậu thanh-tịnh, không cùng tận?
Chúng tôi xin
dẫn một thí-dụ làm điển hình, để giải-thích vấn-đề này:
Có hai gia-đình nghèo khó, đồng gặp một hoàn-cảnh như nhau, trong nhà đều có tai
nạn. Cả hai đều đến hai nhà khá giả để mượn tiền. Một nhà khá giả có
tâm tham, thủ lợi, nên khi đưa của ra đòi có lời. Nhà khá giả thứ hai có tâm
từ-bi, nên cho mượn không, chẳng nghĩ đến việc cảm ơn hay tiền lòi.
Ðúng kỳ hẹn, cả hai gia-đình tai nạn đều đem số tiền trả cho hai người khá giả.
Người khá giả tham lợi, nhận thêm số tiền lời, chi tiêu ít ngày hết. Thế là
hai bên không còn ơn ích gì với nhau nữa cả. Người khá giả thứ hai, vì tâm
nhơn-từ giúp người không cầu danh lợi, nên được người khốn khó kia nhớ ơn và thương
kính mãi mãi.
Ðến khi nước nhà bị giặc giã, cả hai nhà khá giả đều tản-cư. Gia-đình người
tham lợi, tìm người giúp đỡ không ra; đến cậy anh vay tiền lúc trước cũng không
được. Ðây là dụ cho phước hữu-lậu nhiễm-ô (đem tâm tham làm phước) có cùng
tận.
Trái lại, gia-đình người nhơn-từ, được người nghèo khó thọ ơn trước kia, tình-nguyện
hy-sinh giúp đỡ mãi mãi không tính tiền công. Ðây là dụ cho phước vô-lậu thanh-tịnh
(đem tâm từ-bi làm phước) không cùng tận.
Tóm lại, nếu hành-giả đem tâm phiền-não nhiễm-ô (tham, sân, si v.v…) mà làm các
Phật sự, thì chỉ hưởng phước ô-trược hữu-lậu của nhơn thiên, có cùng tận.
Trái lại, nếu hành-giả đem tâm thanh-tịnh (từ-bi, trí-huệ, không cầu danh lợi v.v…)
mà làm các Phật sự, thì hưởng phước vô-lậu thanh-tịnh của Phật, không cùng tận.
6. PHẬT DẠY AN TRỤ CHƠN TÂM
Tóm lại, Phật
dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Các vị Bồ-tát mà y như lời ta dạy đó mà an trụ chơn-tâm.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật tóm kết lại hai đoạn trên, để trả lời câu hỏi câu ông Tu-Bồ-Ðề: “làm
sao an trụ chơn tâm”.
Phật dạy: “Các vị Bồ-tát độ vô lượng vô biên chúng-sanh đều được nhập Niết-bàn,
nhưng không thấy có một chúng-sanh nào được độ”; và “Bồ-tát tu pháp bố-thí, không
nên trụ chấp các tướng, như sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp”; nghĩa là Bồ-tát
không chấp ngã (khi độ sanh) không chấp pháp (khi bố-thí); đó là phương-pháp “hàng
phục vọng-tâm” mà cũng là “an trụ chơn tâm”.
Nếu Bồ-tát độ sanh và làm các Phật sự, mà khởi vọng tâm, chấp nơi các tướng (ngã,
nhơn v.v…) thì các phiền-não tham, sân, si đua nhau nổi lên. Nếu tham, sân,
si đã nổi lên thì không sao khỏi tạo nghiệp sanh-tử luân-hồi.
Trái lại, nếu Bồ-tát độ sanh hay làm các Phật sự, mà không khởi vọng-tâm, chấp các
tướng ngã, pháp v.v… thì các phiền não tham, sân, si không sanh. Phiền não
không sanh, thì không tạo nghiệp. Nghiệp không tạo thì không còn sanh tử luân-hồi.
Tóm lại, Phật dạy: “Ðừng trụ chấp một nơi nào”. Ðó là phương-pháp “hàng
phục vọng-tâm” và “an trụ chơn-tâm” của hàng Ðại thừa Bồ-tát.
Ngài Long-Tế Hòa-thượng ngộ được lý “vô trụ” của kinh Bát-Nhã, nên có làm bài tụng
rằng:
Nguyên văn (dịch âm):
Tâm cảnh đốn tiêu dung
Phương minh sắc dữ không
Dục thức bổn lai thể
Thanh sơn bạch vân trung.
Dịch nghĩa:
Không còn chấp tâm và cảnh
Mới ngộ được lý sắc, không
Muốn biết bản lai bản-thể
Kìa, mây trắng với non xanh.
ÐẠI Ý
Muốn ngộ được lý “sắc tức thị không, không tức thị sắc”, thì phải trừ các vọng chấp
ngã (tâm) và pháp (cảnh). Muốn biết bản-thể Bát-Nhã chơn không, xưa nay như
thế nào, thì cứ xem “kìa mây trắng với non xanh”.