BÀI THỨ TƯ
PHẦN
GIẢI THÍCH
NÓI VỀ NGHĨA
“GIÁC”
(tiếp theo và hết)
CHÁNH VĂN
Bản-giác có hai tướng.
Lại nữa, do dứt các nhiễm-duyên phân-biệt,
nên bản-giác thành ra hai tướng: 1.- Tướng trí-tịnh và 2.- Tướng nghiệp-dụng bất
tư nghị; hai tướng này không rời bản-giác.
1.
Tướng trí-tịnh (Thể).
Hành-giả nhờ sức huân-tập và như thật tu-hành, đến khi công-phu tu-hành đã viên-mãn,
phá trừ được thức A-lại-da (chơn vọng hòa-hiệp) và diệt các vọng-tâm tương-tục,
thì pháp-thân thanh-tịnh hiện ra, đặng cái trí thuần-tịnh, nên gọi là “Tướng trí-tịnh”.
LƯỢC GIẢI
Nhờ dứt trừ các pháp nhiễm-ô phân-biệt, nên tánh-giác hiện ra có hai tướng: 1.-
Bản-thể sáng-suốt trong sạch, gọi là “Tướng trí-tịnh”. 2.- Diệu-dụng không
thể nghĩ bàn, gọi là “Tướng nghiệp-dụng bất tư nghị”. Vì thể và dụng không
rời tánh-giác, nên gọi “hai tướng không rời bản-giác”.
Bực Tam-hiền, bên trong nhờ sức Chơn-như huân ra, bên ngoài lại nhờ chánh-pháp huân
vào, nên làm cho hành-giả tự phát khởi tín tâm tu-hành.
Ðến hàng Thập-địa Bồ-tát, do nhờ sức tu-tập, nên ngộ-nhập được tâm chơn-như, rồi
y như tâm chơn-như này mà tu, nên gọi là “Như thật tu hành”.
Ðến vị Ðẳng-giác Bồ-tát, thì sự tu hành, công đã thành quả lại mãn; lúc bấy giờ
Bồ-tát phá trừ thức hòa-hiệp và diệt tâm tương-tục, nên pháp-thân thanh-tịnh hiện
ra, đặng trí thuần-tịnh, gọi là “Tướng trí-tịnh”.
GIẢI DANH-TỪ
“Thức hòa-hiệp” - Ðoạn trước
nói “Sanh-diệt và bất sanh-diệt hòa-hiệp, gọi là A-lại-da”, nay nói “phá thức hòa-hiệp”
tức là phá thức A-lại-da. Song chỉ phá cái “tướng hư-vọng tạp nhiễm” của Thức
A-lại-da; không phải phá cái “thể tánh” của thức này.
“Tâm tương-tục” - Tâm tương-tục
tức là 7 chuyển thức (từ nhãn-thức đến Mạt-na thức). Diệt tâm tương-tục, tức
là diệt “tướng” hư-vọng tương-tục của 7 thức trước; không phải diệt cái “thể” của
7 chuyển thức.
CHÁNH VĂN
Hỏi: Nghĩa này thế nào?
Ðáp: Tất cả tâm thức đều là vô-minh; song cái tướng vô-minh (vọng) không rời
tánh-giác (chơn). Bởi thế nên không thể phá hoại (vì không rời tánh-giác),
và cũng không phải không phá hoại được (vì là tướng vô-minh).
Thí như nước biển cả (dụ tánh-giác) vì gió (vô-minh) nên nổi sóng (tâm-thức); sóng
và gió đều động và không rời nhau; song tánh nước chẳng động. Ðến khi sóng
đứng thì gió lặng, song tánh ướt của nước không diệt.
Cũng thế, biển tâm thanh-tịnh của chúng-sanh, bị gió vô-minh thổi động, nên sóng
tâm-thức nổi lên. Sóng tâm-thức, gió vô-minh đều động, lại không hình tướng
và chẳng rời nhau; song biển chơn-tâm chẳng hề chao-động. Nếu gió vô-minh
dừng, thì sóng tâm-thức tương-tục kia cũng lặng; song nước trí thuần-tịnh (chơn)
không bao giờ diệt.
LƯỢC GIẢI
Vì vô-minh sanh ra các tâm-thức hư-vọng, nên các tâm-thức không rời vô-minih.
Song vô-minh lại không thật thể, chỉ nương tánh-giác mà có, nên nó không rời tánh-giác.
Ðến khi vô-minh hết, thức tâm diệt, thì tánh-giác hiện bày. Cũng như, vì gió
thổi nên sóng nổi lên; sóng và gió đều động và không rời nhau. Ðến khi gió
đứng sóng lặng, thì tánh nước thanh-tịnh bằng phẳng hiện ra.
CHÁNH VĂN
2.
Tướng nghiệp-dụng bất tư nghị (Dụng).
Do tướng trí-tịnh đủ vô lượng công-đức và thường không đoạn tuyệt, nên có thể tùy
thuận theo căn cơ của chúng-sanh, tự-nhiên ứng-hiện ra tất cả các cảnh-giới mầu-nhiệm
thù-thắng, để làm lợi-ích cho chúng-sanh.
LƯỢC GIẢI
Từ chơn-như thể (tướng trí-tịnh) khởi ra các diệu-dụng (chơn-như dụng) không thể
nghĩ bàn được (tướng nghiệp-dụng bất tư nghị). Nhờ diệu-dụng này mới có thể
hiện ra các cảnh-giới thù-thắng, tùy theo trình-độ của mỗi loài, làm vô lượng công-đức,
để lợi-ích cho tất cả chúng-sanh không thể nghĩ bàn.
Ngài Ðức-Thanh giải: Bản-giác khi còn ở tại vỏ mê, thì chúng-sanh nương nơi
đó mà tạo ra vô lượng các nghiệp, nên kinh chép: “Nghiệp lực không thể nghĩ
bàn”. Nay Bản-giác đã ra khỏi vỏ mê, được thanh-tịnh, thì có đủ tất cả thần-thông
diệu-dụng, cũng không thể nghĩ bàn được. Và Bản-giác này hiện ra các cảnh-giới
thắng-diệu, làm vô lượng công-đức, tùy theo căn-cơ của mỗi loài, ứng-hiện đủ cách,
để làm lợi-ích cho các chúng-sanh; như Ngài Quán-thế-âm hiện ra 32 ứng-thân, 14
món vô-úy… nên gọi là “Nghiệp-dụng bất khả tư nghị” (Diệu dụng không thể nghĩ bàn).
GIẢI DANH-TỪ
“Tự nhiên ứng hiện” – Nghĩa là ứng-hiện
một cách tự-nhiên, không dụng công và cố ý. Thí như mặt trăng chiếu xuống
ao, hễ nước trong thì trăng tự-nhiên ứng-hiện; trăng không có dụng công và cố ý.
CHÁNH VĂN - BẢN-GIÁC CÓ 4 NGHĨA
Lại nữa, Thể và Tướng của tánh-giác (chơn-tâm) giống như cái gương sáng sạch, và
rộng lớn như hư-không, bao trùm tất cả. Tánh-giác này có bốn nghĩa:
1.
Như thật không.
Như cái gương lớn sáng sạch, không có hình-ảnh của cảnh-vật (thật không).
Tánh-giác (chơn-tâm) xa lìa các tướng của vọng-tâm và vọng-cảnh (ly nhất thế tướng);
không có một pháp nào hiện ra cả; cũng như cái gương trống không. Ðây là nói
về nghĩa “Tịch” (vắng-lặng) của tánh-giác, không phải nói về nghĩa “chiếu”.
LƯỢC GIẢI
Vì tánh-giác viên-mãn thanh-tịnh, nên dụ như cái gương sáng sạch; vì tánh-giác rộng-rãi
bao la, nên dụ như hư-không rộng lớn. Nếu phân tách từng khía cạnh, thì tánh-giác
có bốn nghĩa; đoạn này nói về nghĩa thứ nhứt:
1. Thật không: Ðây là
nói về nghĩa “tịch-tịnh” của Chơn-tâm. Vì Bản-thể chơn-tâm (tánh-giác) vốn
thanh-tịnh, rộng-rãi bao-la và ly tất cả các tướng, không thể dùng tâm-thức suy-nghĩ
hay lời nói luận bàn được, (cũng như cái gương sáng sạch, không có lưu một hình
ảnh gì ở trong gương cả) tức là pháp-thân thanh-tịnh sẵn có của chúng-sanh, không
phải do tu mới được.
CHÁNH VĂN
2.
Như huân-tập.
Như cái gương sáng lớn, hiện đủ các cảnh (thật có). Trong tánh-giác (chơn-tâm)
đủ cả các pháp (tức nhứt thế pháp) nghĩa là tất cả cảnh-giới tánh, phàm đều hiện
trong chơn-tâm thường-trú nầy. Nó không xuất không nhập, không mất không hoại,
vì tánh của các pháp là chơn-tâm vậy.
Lại nữa, vì tánh-giác không vọng-động, nên các pháp nhiễm-ô, không thể làm nhiễm-ô
nó được; trái lại nó đủ tất cả các pháp vô-lậu và làm nhơn huân-tập cho chúng-sanh
vậy.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trước nói về “thể” của chơn-tâm, ly tất cả các tướng, cũng như cái gương sáng,
không có một vật gì ở trong gương (như thật không). Ðoạn này có nói về Tướng
và Dụng của chơn-tâm đủ tất cả pháp. Cũng như cái gương sáng, các cảnh-vật
đều hiện vào (như thật bất không).
Tướng và Dụng của chơn-tâm có hai nghĩa: 1.- Ðủ tất cả pháp. Tất cả chúng-sanh
đều sẵn có các pháp vô-lậu thanh-tịnh cũng gọi là “bản hữu Phật-tánh” hay “chánh-nhơn
Phật-tánh”.
2. Nhơn huân-tập: Tất cả chúng-sanh
đều sẵn có tánh Phật; tánh Phật đủ vô-lượng hằng sa công-đức và thanh-tịnh không
động, nên các pháp nhiễm-ô không làm nhiễm-ô được. Tánh Phật này làm chánh-nhơn
(chánh-nhơn Phật-tánh) huân-tập ở bên trong, khiến cho chúng-sanh giác-ngộ, nhàm-chán
khổ sanh tử, phát tâm cầu đạo giải-thoát.
CHÁNH VĂN
3.
Xuất pháp-ly
Như cái gương đã sáng sạch, không còn bụi nhơ. Tánh-giác (tánh Phật) đã sáng-suốt
thuần-tịnh, ra khỏi hai chướng: Phiền-não chướng, Sở-tri chướng và xa-lìa thứa A-lại-da
(Chơn, Vọng hòa-hiệp).
LƯỢC GIẢI
3. Pháp xuất-ly tức là “Liễu-nhơn
Phật-tánh”, cũng gọi là “Chơn-như xuất-triền”. Hành-giả nhờ công-pu tu-tập,
đoạn trừ phiền-não chướng, sở-tri chướng và pha thức hòa-hiệp (A-lại-da), nên tánh
Phật (Chơn-như) không còn bị triền-phược và được sáng-suốt thuần-tịnh.
CHÁNH VĂN
4.
Duyên huân-tập.
Như cái gương sáng, phản chiếu trở lại. Tánh-giác (Phật-tánh) đã ra khỏi vỏ
triền-phược rồi, trở lại chiếu soi khắp giáp tất cả, và tùy theo tâm-niệm của mỗi
loài mà hiện-thân hóa-độ, làm trợ duyên huân-tập trở lại vào tâm chúng-sanh, khiến
cho chúng-sanh tu-tập căn lành.
LƯỢC GIẢI
4. Duyên-nhơn Phật-tánh:
Do Chơn-như đã xuất-triền, nên có diệu-dụng không thể nghĩ bàn: Chiếu khắp tất cả
và tùy theo tâm-niệm của chúng-sanh mà thị-hiện các thân hình hóa-độ, làm trợ-duyên,
huân-tập trở lại vào tâm chúng-sanh, khiến cho chúng-sanh phát Bồ-đề tâm, tu theo
chánh-pháp.
Công-dụng cao-cả và rộng lớn của Chơn-như (tánh-giác), chỉ có thể thí-dụ như hư-không.
Thể-tánh sáng suốt thuần-tịnh của chơn-như (Tánh-giác), chỉ có thể thí-dụ như gương:
dầu có bụi hay không, song chất pha-lê (gương) vẫn sáng-suốt thỉ chung như một.
(Ðoạn này đã nói nghĩa “Giác” rồi, tiếp theo sau đây sẽ nói nghĩa “Bất-giác” của
thức A-lại-da).