BÀI THỨ TƯ
Ý-THỨC
(THỨC THỨ SÁU)
Thức này nương Ý-căn (thức thứ 7) khởi tác-dụng phân-biệt Pháp-trần, nên gọi là
“Ý-thức”.
Trong tám thức duy có thức thứ Sáu này rất lanh-lẹ và khôn-ngoan hơn hết, nên trong
bài thơ Bát-thức có câu rằng: “Ðộc hữu nhứt cá tối linh ly” (Riêng có một
cái thức rất lanh-lẹ). Suy-nghĩ làm việc phải, thức này đứng đầu; còn tính-toán
tạo-tác việc ác, thì nó cũng hơn cả. Bởi thế nên trong Duy-thức nói:
“Công vi thủ, tội vi khôi”. (Nói về “Công” thì thức này hơn hết, còn đứng
về “Tội” thì nó cũng đứng đầu). Thức này cũng có công-năng chấp Ngã và chấp
Pháp.
Một điều mà người học thường thắc-mắc:
-
Tại sao thức thứ Sáu gọi là “Ý-thức”, mà thức thứ Bảy cũng gọi là “Ý-thức”?
-
Trong Ðại-thừa bá-pháp minh môn luận chuế ngôn, có giải-thích như vầy: Thức
thứ Sáu mà gọi là “Ý-thức”, vì thức này nương “Ý-căn” mà khởi ra phân-biệt, nên
gọi là “Ý-thức”. Nghĩa là thức của Ý-căn. “Thức” là năng-y, còn “Ý”
là bị-y, hai phần khác nhau. Cũng như nói “Nhãn-thức”, tức là thức của Nhãn-căn.
Thế là căn với thức khác nhau.
Còn thức thứ Bảy mà gọi là “Ý-thức”; chữ “Ý” là sanh diệt tương-tục không gián-đoạn.
Vì thức sanh diệt tương-tục không gián-đoạn nên gọi là “Ý-thức”. Thế là “Thức”
tức là “Ý” không khác. Cũng như “Tàng-thức”; chữ “Tàng” là chứa đựng.
Vì thức này chứa đựng các pháp, nên gọi là “Tàng-thức”. Thế là “Thức” tức
là “Tàng” (chứa) không khác.
KHI Ở ÐỊA-VỊ PHÀM-PHU, THỨC NÀY ÐỐI VỚI:
1. Ba cảnh:
Thức này có đủ ba cảnh:
a) Tánh cảnh, b) Ðộc-ảnh cảnh, c) Ðới-chất cảnh.
2. Ba lượng:
Thức này có đủ ba lượng:
a) Hiện-lượng, b) Tỷ-lượng, c) Phi-lượng.
3. Ba tánh:
Thức này có đủ ba tánh: a) Thiện tánh, b) Ác tánh, c) Vô-ký
tánh.
4. Ba cõi:
Thức này có đủ trong ba cõi: a) Cõi Dục, b) Cõi Sắc, c)
Cõi Vô-sắc.
5. Chín địa:
Thức này có đủ trong chín địa.
6. Tâm-sở:
Thức này có đủ 51 món Tâm-sở: 5 món Biến-hành, 5 món Biệt-cảnh, 11 món Thiện,
6 món Căn-bản phiền-não, 20 món Tùy-phiền-não, 4 món Bất-định.
7. Chín duyên:
Trong 9 duyên, thức này chỉ
có 5 duyên: a) Căn duyên, b) Cảnh duyên, c) Tác-ý duyên,
d) Căn-bản duyên, đ) Chủng-tử duyên.
8. Thể
(tánh):
Thể của thức này có đủ ba món phân-biệt: a) Tự-tánh phân-biệt, b)
Tùy-niệm phân-biệt, c) Kế-đạt phân-biệt.
9. Tướng:
Tướng của thức này là luân-chuyển trong ba cõi (tam giới luân thời dị khả tri).
10. Nghiệp-dụng:
Nghiệp-dụng của thức này làm cho thân và miệng tạo ra dẫn-nghiệp và mãn-nghiệp để
cảm-thọ quả-báo trong ba cõi. Và ba Tánh cùng năm Thọ, thức này thường thay
đổi luôn.
KHI LÊN THÁNH-VỊ, THỨC NÀY ÐỐI VỚI:
1. Quán-hạnh (tu):
Thức thứ Sáu này quán sanh-không, phá trừ ngã-chấp và quán pháp-không, phá trừ pháp-chấp.
2. Ðoạn hoặc và thành trí:
Thức này có năm giai-đoạn
trừ hoặc và chuyển thành Trí.
1.
Ðến vị Tư-lương, thì thức này mới chinh-phục được hai món hiện-hành của ngã-chấp
và pháp-chấp.
2.
Ðến vị Kiến-đạo, thì thức này mới đoạn được hai món chủng-tử về phần phân-biệt của
ngã-chấp và pháp-chấp.
3.
Ðến vị Tu-tập, thức này đoạn được hai món hiện-hành và chinh-phục được hai món
chủng-tử cu-sanh của ngã-chấp và pháp-chấp.
4.
Ðến vị Viễn-hành trở lên, thì thức này mới đoạn hết cu-sanh ngã-chấp và hoàn-toàn vô-lậu.
5.
Ðến vị Ðẳng-giác, thì thức này mới đoạn hết cu-sanh pháp-chấp, chuyển thành Diệu-quan-sát
trí.
3. Chứng-quả và diệu-dụng:
Khi chứng-quả vị Phật, thì
thức này chuyển thành Diệu-quan-sát trí và có công-năng chiếu soi căn-cơ của chúng-sanh
trong Ðại-thiên thế-giới, rồi tùy cơ thuyết pháp hóa-độ hàm-linh.
Muốn cho người học dễ nhớ, nên trong Bát-thức qui-củ, ngài Huyền-Trang Pháp-sư có
làm ba bài tụng như sau. Hai bài tụng đầu, nói thức này khi ở địa-vị Phàm-phu,
bài thứ ba, nói thức này khi đặng Thánh-quả.
BÀI TỤNG THỨ NHẤT
Tam Tánh, tam Lượng thông tam Cảnh
Tam giới luân thời dị khả tri
Tương-ưng tâm-sở ngũ thập nhứt
Thiện ác lâm thời biệt phối chi.
Dịch nghĩa:
Ba Tánh, ba Lượng và ba Cảnh
Luân chuyển ba cõi rất dễ biết
Tâm-sở tương-ưng năm mươi mốt
Thiện ác đến thời riêng phối-hiệp.
LƯỢC GIẢI:
Thức thứ Sáu này đủ cả ba Tánh, ba Lượng và ba Cảnh. Nó luân-hồi trong ba
cõi rất dễ biết. Những Tâm-sở tương-ưng với thức này có 51 món. Khi
thức này nghĩ việc lành thì có Thiện-tâm-sở riêng phối-hiệp, còn khi nghĩ việc ác
thì có Ác-tâm-sở riêng phối-hiệp.
BÀI TỤNG THỨ HAI
Tánh, Giới, Thọ tam hằng chuyển dịch
Căn, Tùy, Tín đẳng tổng tương liên
Ðộng thân phát ngữ độc vi tối
Dẫn, Mãn năng chiêu nghiệp lực khiên.
Dịch nghĩa:
Tánh, Giới, Thọ ba thường
biến đổi
Căn, Tùy, Tín chung nhau liên tiếp
Thân động, miệng thốt nó hơn hết
Dẫn-nghiệp Mãn-nghiệp thọ quả báo.
LƯỢC GIẢI:
Thức này đối với 3 tánh, 3 giới và 5 thọ thì nó thường thay đổi; khi thì vui lúc
lại buồn v.v… 51 món tâm-sở, như Căn-bản phiền-não, Tùy-phiền-não và Thiện tâm-sở
v.v… cùng nhau liên-tiếp không lúc nào rời thức này. Làm cho thân động và
miệng nói, duy có thức này là hơn hết. Nó tạo ra dẫn-nghiệp và mãn-nghiệp
để chiêu-cảm quả báo đời sau.
BÀI TỤNG THỨ BA
Phát khởi sơ-tâm Hoan-hỷ địa
Cu-sanh du tự hiện triền-miên
Viễn-hành địa hậu thuần vô-lậu
Quán-sát viên-minh chiếu đại thiên.
Dịch nghĩa:
Khi đặng Sơ-tâm hoan-hỷ địa
Cu-sanh ngã, pháp hiện còn ẩn
Viễn-hành về sau thuần vô-lậu
Quán-sát viên-mãn khắp Ðại-thiên.
LƯỢC GIẢI:
Hành-giả trong lúc trải qua Thập-thánh thì thức này có 3 thời-kỳ đoạn phiền-não
và thuần vô-lậu.
1.
Khi lên Sơ-địa, tức là Hoan-hỷ địa, thì phân-biệt ngã-chấp và pháp-chấp đều đã đoạn.
Nhưng cu-sanh ngã-chấp và pháp-chấp hày còn hiện-hành và miên-phục trong Tàng-thức,
chưa có thể chinh-phục và đoạn-trừ được.
2.
Khi đến Viễn-hành địa (tức là Thất-địa) trở lên thì mới đoạn được chủng-tử cu-sanh
của ngã-chấp và chinh-phục được hiện-hành của pháp-chấp. Lúc bấy giờ thức
này mới thuần Vô-lậu.
3.
Khi sắp lên quả Phật thì đoạn được chủng-tử cu-sanh của pháp-chấp. Lúc bấy
giờ thức này chuyển thành Diệu-quan-sát trí, quán-sát chiếu soi cả Ðại-thiên thế-giới
và tùy theo căn-cơ của mỗi loài mà thuyết-pháp giáo-hóa.