BÀI THỨ MƯỜI HAI
C - PHẦN LƯU THÔNG
XII. CHƯƠNG HIỀN THIỆN THỦ
1. NGÀI HIỀN THIỀN THỦ BỒ TÁT HỎI PHẬT
Khi ấy Ngài HIền Thiện Thủ Bồ tát ở trong đại
chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi quỳ thẳng chắp tay bạch Phật
rằng:
- Bạch đức Đại Bi Thế Tôn, Ngài
đã vì chúng con và chúng sanh đời sau rộng giảng dạy cho chúng con hiểu ngộ được
những việc không thể nghĩ bàn.
- Bạch Đức Thế Tôn:
- Kinh Đại Thừa nầy tên gì?
- Chúng con làm sao phụng trì?
- Chúng sanh tu theo kinh nầy sẽ
được công đức gì?
- Chúng con làm sao bảo hộ những
người thọ trì kinh nầy?
- Phải truyền bá kinh giáo nầy ở
địa vị nào?
Ngài Hiền Thiện Thủ Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
LƯỢC GIẢI
Đoạn kinh nầy có hai phần:
a) Ngài Hiền Thiện Thủ Bồ-tát tán thán Phật, vì chúng sanh
giảng dạy những việc không thể nghĩ bàn.
b) Bồ tát hỏi Phật 5 điều:
1. Kinh nầy tên là kinh gì?
2. Làm sao phụng trì?
3. Chúng sanh tu theo kinh nầy sẽ được ông đức gì?
4. Làm sao bảo hộ những người thọ trì kinh nầy?
5. Truyền bá kinh nầy ở địa vị nào?
2. PHẬT KHEN NGÀI HIỀN THIỆN THỦ BỒ TÁT
Khi ấy đức Thế Tôn khen ngài Hiền Thiện Thủ Bồ tát và dạy rằng:
- Nầy Thiện nam! Hay lắm và
quý lắm! Ông vì các vị Bồ-tát và chúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai tên
kinh và công đức trì kinh nầy, các ông nên chăm chú nghe lời ta chỉ giáo.
LƯỢC GIẢI
Vì muốn cho mưa Pháp gội nhuần các chúng sanh
đời sau, nên Ngài HIền Thiện Thủ Bồ-tát đứng lên hỏi Phật về việc thọ trì và truyền
bá kinh nầy. Đoạn nầy Phật khen ngài Hiền Thiện Thủ và bảo phải chăm chú nghe
lời Phật chỉ giáo.
3. PHẬT NÓI TÊN KINH NẦY
- Nầy Thiện nam!
Kinh nầy không phải chỉ một mình ta nói, mà các đức Phật trong 10 phương nhiều như
trăm ngàn muôn ức lần số cát sông Hằng, cũng đều nói kinh nầy. Các đức Phật
trong 3 đời đều bảo hộ kinh nầy. Mười phương các vị Bồ tát đều quy y kinh
nầy. Kinh nầy là tròng con mắt của 12 bộ kinh. Kinh nầy có 5 tên:
1. Đại Phương Quảng Viên Giác Đà-la-ni kinh
2. Tu Đa La Liễu nghĩa kinh
3. Bí mật Vương Tam muội kinh
4. Như Lai quyết định cảnh giới kinh
5. Như Lai tạng tự tánh sai biệt kinh
Các ông phải biết hết lòng cung kính phụng trì kinh nầy.
LƯỢC GIẢI
Kinh nầy nói về tánh “Viên Giác.” Người ngộ nhập được tánh Viên Giác thì thành
Phật; còn không ngộ được thời làm chúng sanh.
Mục đích của Phật ra đời là độ chúng sanh thành
Phật. Song chúng sanh có nhập Viên Giác mới được thành Phật. Vì thế
nên hằng sa đức Phật ra đời, đều nói kinh Viên Giác.
Vì trong kinh Viên Giác rất quí báu như thế,
nên các đức Như Lai trong 3 đời thưòng giữ gìn và bảo hộ kinh nầy. Mười phương
các vị Bồ tát cũng đều quy y kinh nầy, vì quy y kinh nầy là quy y tánh Viên Giác.
Giáo pháp của Phật tuy nhiều, nhưng tóm lại
chia ra một mục đích là dạy chúng sanh tu hành thành Phật; mà muốn thành Phật thì
phải nhập Viên Giác. Bởi thế nên kinh nầy là “tròng con mắt” của 12 bộ kinh.
“12 bộ kinh”. - Phật ra đời thuyết pháp 49
năm, tóm lại có 3 tạng: Kinh, Luật, và Luận: phân ra 12 bộ, tức là 12 loại.
Có bài kệ tóm 12 bộ kinh:
Trường hàng, Trùng tụng
và Cô khởi
Thí dụ, Nhơn duyên cùng Tự thuyết
Bổn sanh, Bổn sự, Vị tằng hữu
Phương quảng, Luận nghị và Ký biệt.
Kinh nầy có nhiều đức tánh và nhiều công dụng, nên có nhiều tên:
a) Đại Phương Quảng Viên Giác Đà La Ni kinh.
Tánh Viên Giác Quảng Đại phương viên bao trùm
và gìn giữ các pháp.
“Đà La Ni”, Tàu dịch là “Tổng trì”: Bao
trùm gìn giữ . Đà La Ni có bốn thứ:
1. Pháp Đà La Ni - Chỉ một chữ,
một danh hiệu hay một câu mà bao trùm tất cả chữ, tất cả danh hiệu và tất cả câu.
2. Nghĩa Đà La Ni - Như nói Chơn
như, Duy tâm, Duy thức, Pháp giới v.v… đều đã tóm thâu sự vật sai biệt.
3. Định Đà La Ni - Do sức Định
mà tinh thần thống nhất tập trung lại, nên phát huy được lực lượng rất mạnh, nhờ
đó mà thành tựu được nhiều môn Định (Định Tổng Trì.)
4. Chú Đà La Ni - Tức thần chú.
Do hành giả tập trung tinh thần trì chú, nên có sức mạnh làm cho Hành giả được toại
bản nguyện của mình.
b) “Tu Đa La Liễu Nghĩa”
Chữ “Tu
Đa La”, Tàu dịch là “Khế kinh”. Nghĩa là kinh nầy hiệp với chơn lý và căn
cơ của chúng sanh.
Chữ “Liễu Nghĩa”: Nghĩa lý rốt ráo đứng
đắn. Kinh của Phật có hai loại:
1. Bất Liễu nghĩa kinh: Kinh
nầy Phật tùy quốc độ, tùy thời đại và tùy căn cơ, mà phương tiện nói ra, như các
kinh về Tiểu thừa, nghĩa lý chưa rốt ráo.
2. Liễu nghĩa kinh: Kinh nầy nghĩa
lý rốt ráo đứng đắn, Phật nói đúng chân lý không có tùy thời tùy cơ v.v… Như
các kinh Đại thừa. Kinh “Viên giác” đây thuộc về kinh Liễu nghĩa.
c) “Bí mật Vương Tam Muội”
Chữ “Tam
muội” tức là “Tam ma địa”, Tàu dịch:
1. Đẳng trì
2. Chánh định
3. Chánh thụ
4. Chánh tư duy
“Viên giác Tam muội” nầy cao cả hơn các pháp Tam muội, cho nên gọi là “Vương” (Vua).
Chữ “Bí mật” Pháp Viên giác Tam muội
nầy, duy có Phật mới hoàn toàn thấu rõ được; ngoài ra như chúng sanh thời không
biết, cho đến bực Đẳng giác Bồ tát cũng chưa có thể thấu tột được, cho nên nói là
“Bí mật”.
d) “Như Lai quyết định cãnh giới kinh”
Cảnh giới
Viên giác nầy duy có đức Như Lai mới quyết định chứng nhập được. Từ bực Đẳng
giác Bồ tát trở xuống, còn ở trong vòng cầu chứng nhập, nên chưa quyết định được.
e) “Như Lai tạng tự tánh sai biệt kinh”
Chữ “Như
Lai tạng”, nghĩa là “Như Lai” còn tại triền. Bởi các vọng huyễn chưa viễn
ly, Giác tánh chưa phát hiện. Nghĩa là “quả đức Như Lai” còn bị tiềm tàng
ẩn phục trong tâm của chúng sanh; tức là tánh Viên Giác còn bị triền phược vậy.
Chữ “tự tánh”: Tánh Viên giác tuy ở trong
huyễn vọng mà vẫn sáng suốt thanh tịnh không thay đổi, nên gọi là “tự tánh”.
Chữ “sai biệt”: Tánh Viên Giác tùy duyên
ứng hiện ra các pháp sai khác nên gọi là “sai biệt”.
4. PHẬT NÓI CÔNG ĐỨC TRÌ KINH NẦY
- Nầy Thiện nam!
Kinh nầy nói về cảnh giới của Như Lai, nên duy có Phật mới hay biết, còn các vị
Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ y theo đây tu hành lần hồi tiến đến địa vị Phật.
- Nầy Thiện nam!
Kinh nầy tên “Đại thừa Đốn giáo”. Những chúng sanh đốn cơ mới có thể do kinh
nầy được khai ngộ. Kinh nầy cũng tiếp độ các chúng sanh về tiệm tu.
Bởi thế nên kinh nầy cũng như biển cả, không nhượng các dòng sông nhỏ. Lớn
như Thần A-tu-la và nhỏ như loài muồng muỗi, uống nước biển đều no bụng cả.
- Nầy Thiện nam!
Giả sử có người dùng toàn 7 món báu. chứa đầy cả đại thiên thế giới, đem ra bố thí;
công đức của người ấy rất lớn, nhưng không bằng có người nghe tên kinh nầy, cho
đến chỉ nghe nghĩa một câu, công đức người nầy nhiều hơn.
- Nầy Thiện nam!
Giả sử có người giáo hóa chúng sanh tu hành chứng được quả A-la-hán nhiều đến trăm
lần số cát sông Hằng, nhưng không bằng có người giảng nói kinh nầy, cho đến rất
ít là chỉ giảng nửa bài kệ, công đức của người sau nầy nhiều hơn.
- Nầy Thiện nam!
Nếu có người nghe kinh nầy tin tưởng không nghi ngờ , thì biết người đó đã trồng
phước huệ không những một đời Phật, hoặc hai đời Phật, mà người nầy trồng căn lành
từ nhiều đời Phật, như số cát sông Hằng; cho nên nay nghe đến kinh nầy mới tin tọ.
LƯỢC GIẢI
Đoạn nầy có 5 phần:
I. Kinh nầy nói về cảnh giới Viên giác,
nên duy có Phật mới hay thấu triệt, còn từ các vị Bồ tát trở xuống chỉ y theo đây
tu hành mà thôi.
II. Kinh nầy thuộc về Đại thừa Đốn giáo, nên
rất hợp với những người căn cơ Đại thừa đốn ngộ. Song kinh nầy cũng tiếp độ
các người căn cơ Tiểu thừa tiệm tu, thí như biển cả không nhượng các dòng sông.
Tất cả chúng sanh lớn như A-tu-la, (dụ Đại thừa) nhỏ như mòng muỗi (dụ Nhị thừa)
uống nước biển đều được no cả.
“Đốn giáo” – Ngài Hiền Thiện Thủ phân tam tạng
kinh giáo của Phật làm năm thời:
1. Tiểu (Tiểu thừa)
2. Thỉ (Đại thừa Thỉ giáo)
3. Chung (Đại thừa rốt sau)
4. Đốn (Đại thừa Đốn giáo- Chữ “Đốn là mau lẹ, nhanh
chóng)
5. Viên (Đại thừa viên mãn)
Ngài Thiên Thai lại phân làm bốn thời:
1. Tạng (Tiểu thừa tạng giáo)
2. Thông (Thông đến Đại thừa)
3. Biệt (Đặc biệt Đại thừa)
4. Viên (Đại thừa Viên giáo.)
III. Phật dạy người thọ trì kinh nầy, công đức quí hơn người
bố thí bảo vật. Người dùng bảy món báu đựng đầy cả Đại Thiên Thế giới, đem
bố thí cho chúng sanh, công đức của người ấy tuy lớn nhưng thuộc về phước hữu lậu,
nên chỉ hưởng trong một thời gian rồi hết. Không bằng người nghe tên kinh
nầy, cho đến chỉ nghe một câu nghĩa, tuy rằng ít, nhưng đã gieo được hạt giống vô
lậu thanh tịnh, không sớm thì muộn thế nào cũng được quả vô lậu, nên quí hơn tài
thí.
IV. Người giảng kinh nầy, công đức nhiều hơn người giáo hóa
vô số hàng nhị thừa. Vì giáo hóa vô số người chứng quả Nhị thừa công đức tuy
lớn, nhưng chỉ thuộc về Tiểu thừa quả, nên không sớm thì chầy người ấy quyết định
sẽ được thành Phật. Ví như các ngôi sao tuy nhiều, nhưng sáng không bằng một
mặt trăng.
V. Người nghe kinh nầy mà sanh tâm vui
mừng, ham mộ và tin tưởng, không nghi ngờ, thì biết người nầy đã có trồng hạt giống
Đại thừa, từ nhiều đời đức Phật.
5. PHẬT KHUYÊN CÁC ĐỆ TỬ PHẢI BẢO HỘ NGƯỜI TRÌ
KINH NẦY
- Nầy Thiện nam!
Các ông phải bảo hộ những người tu hành đời mạt pháp, chớ để cho các loài ác ma
và ngoại đạo làm não loạn thân tâm của người tu hành, khiến cho họ thối tâm.
LƯỢC GIẢI
Đời mạt pháp, chúng ngoại đạo tà sư rất thạnh
hành, hay làm nhiễu loạn người tu hành. Nều không bảo vệ giữ gìn, thì hành
giả sẽ bị chúng ma nhiễu hại, rồi phải thối chí ngã lòng.
6. CÁC VỊ THIỆN THẦN PHÁT NGUYỆN BẢO HỘ NGƯỜI
TU HÀNH
Khi ấy ở trong pháp hội có tám vạn Thần Kim
Cang, như ông Hỏa đầu Kim Cang, Tồi toái Kim Cang, Ni Lam Bà Kim Cang, cùng với
quyến thuộc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi kính
cẩn lạy Phật và thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu chúng
sanh đời sau, có người nào thọ trì kinh Đại thừa nầy, thì chúng con nguyện bảo hộ
ngưòi ấy như giữ gìn tròng con mắt; cho đến chỗ đạo tràng của người tu hành, chúng
con cũng nguyện dẫn hết binh tướng đến đó, sớm chiều bảo hộ, khiến cho họ chẳng
thối chuyển. Chỗ nhà cửa của người nầy ở, hằng không có tai chướng, các tật
bịnh đều tiêu hết, của báu giàu có, thường chẳng thiếu thốn.
Khi ấy ông Đại Phạm Vương và 28 vị Thiên Vương, cùng ông Tu Di Sơn Vương và Hộ Quốc
Thiên Vương v.v… đều đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, kính cẩn lạy Phật
và thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con
cũng nguyện bảo hộ người thọ trì kinh nầy, thường được an ổn, tâm chẳng thối lui.
Khi ấy có Đại Lực Quỉ Vương, tên là Cát Bàn Trà cùng với 10 vạn vị Quỉ Vương, đứng
dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi lạy Phật và thưa rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn! Chúng
con cũng nguyện sớm chiều hộ vệ người thọ trì kinh nầy, khiến cho họ không thối
lui. Chỗ của người trì kinh ở, trong khoảng một do tuần (10 dặm) nếu có chúng
quỉ thần nào đến xâm phạm cảnh giới nầy thì chúng con sẽ đập nó nát như vi trần.
Khi ấy tất cả Đại chúng như các vị Bồ tát,
Thiên Long, Quỉ Thần, quyến thuộc của 8 bộ quỉ Thần và chư Thiên, Phạm Vương v.v…
nghe Phật nói kinh nầy rồi đều hoan hỉ, tín thọ và phụng hành.
LƯỢC GIẢI
Chương thứ 12 nầy là nói về việc truyền bá
lưu thông. Thính chúng trong pháp hội, trên từ các vị đại Bồ tát, dưới cho
đến chúng quỉ thần, nghe Phật nói kinh nầy, từ chương thứ nhất là chương Văn Thù,
cho đến chương thứ 11 là chương Viên Giác rồi, tất cả đều lấy làm quí vô cùng, lợi
lạc cho chúng sanh vô tận, nên hớn hở vui mừng, tin thọ và phụng hành. Bởi
thế nên các vị Thiên Thần đều phát nguyện bảo hộ kinh và triệt để ủng hộ người thọ
trì đọc tụng kinh nầy.
Chúng ta chắc đã có trồng căn lành từ nhiều
đời trước, cho nên hôm nay mới có diễm phúc được nghe kinh nầy. Ước mong quí
vị mỗi người nên phát Bồ đề tâm tu hành và truyền bá kinh nầy được phổ cập quần
sanh. Thế là chúng ta đã đền đáp được ơn Phật mà cũng thực hành theo hạnh
Phật là “Tự giác, giác tha, giác hạnh Viên Giác”.