BÀI THỨ MƯỜI SÁU
I. MƯỜI MÓN MA VỀ HÀNH-ẤM
1.
Chấp không nguyên-nhơn sanh.
2.
Bốn món chấp thường.
3.
Chấp một phần thường, một phần vô thường.
4.
Chấp có bốn món biên-giới.
5.
Bốn món luận-nghị rối loạn, không nhứt định.
6.
Chấp mười sáu tướng có.
7.
Chấp tám món vô thường.
8.
Chấp tám món cu-phi.
9.
Chấp bảy món đoạn diệt.
10.
Chấp năm món Niết-bàn hiện-tại.
II. MƯỜI MÓN MA VỀ THỨC-ẤM
1.
Chấp minh-đế.
2.
Chấp năng-sanh.
3.
Chấp chơn-thường.
4.
Chấp cây cỏ cũng đều có biết.
5.
Chấp tứ-đại hóa sanh.
6.
Chấp hư-vô.
7.
Tham cầu sống lâu.
8.
Tham luyến cảnh dục.
9.
Ðịnh tánh Thinh-văn.
10.
Ðịnh tánh Duyên-giác.
BÀI THỨ MƯỜI SÁU
I. MƯỜI MÓN MA VỀ HÀNH-ẤM
1. Chấp không nguyên-nhơn sanh.
- A-Nan, người tu thiền-định
khi tưởng-ấm hết rồi, thì tâm được minh-chánh, không còn khởi các vọng-tưởng tham
muốn như trên, nên các thiên ma không gặp dịp thuận-tiện để nhiễu-hại nữa.
Lúc bấy giờ hành-giả tự nghiên-cứu nguồn-gốc của muôn loài, rồi sanh ra hai
lối chấp:
a) Vì chỉ thấy biết được chúng-sanh từ
tám vạn kiếp trở lại, ngoài tám vạn kiếp thì mù-mịt không thấy biết, nên sanh ra
chấp:“Chúng-sanh từ tám vạn kiếp trở lại
tự-nhiên có, không có nguyên-nhơn sanh”.
b) Hành-giả nghiên-cứu chỉ thấy người
sanh người, chim sanh ra chim, quạ từ hồi nào đến giờ vẫn đen, không phải do nhuộm
mà được, cò từ hồi nào tới giờ vẫn trắng, không phải do rửa mới trắng v.v… từ tám
vạn kiếp đến nay đã vậy, thì từ đây về sau cũng thế.
Hành-giả tự nghĩ ta từ hồi nào đến giờ không thành Bồ-đề, thì về sau đâu
lại có thành Phật, rồi khởi ra tà chấp:“Các
vật-tượng ngày nay đều không có nguyên nhân”.
Bởi mê-mờ tánh Bồ-đề, mất chánh-tri-kiến, sanh ra hai lối chấp trên, đều đọa về
ngoại đạo.
2.
Bốn món chấp thường.
- A-Nan, người tu thiền-định,
khi tưởng-ấm hết rồi, tâm được minh-chánh, nên ngoại ma không còn thuận-tiện để
nhiễu-hại được.Khi đó hành-giả tham-cứu
cùng tột cội gốc của muôn loài, khởi ra bốn món chấp thường:
1. Chấp hai vạn kiếp thường.
-Vì hành-giả nghiên-cứu
cùng tột cả tâm và cảnh đều vô-nhơn, vì sức tu chỉ biết được chúng-sanh sanh diệt
xoay vần từ hai vạn kiếp trở lại không mất, nên chấp cho là thường.
2. Chấp bốn vạn kiếp thường.
-
Hành-giả tham cứu cùng
tột tánh của tứ-đại thường còn, do sức tu-tập chỉ biết được chúng-sanh từ bốn vạn
kiếp trở lại, tuy có sanh-diệt, mà bản-thể nó vẫn thường còn không mất, nên chấp
là thường.
3. Chấp tám vạn kiếp là thường. -
Hành-giả tham-cứu cùng tận tám thức, thấy nó thường hằng.
Vì thấy từ tám vạn kiếp trở lại chúng-sanh xoay vần không mất, nên chấp là
thường.
4. Chấp cái không sanh diệt là thường. -
Người tu thiền-định khi các tưởng-ấm sanh diệt đã hết, nhơn đó khởi
tâm chấp cái không sanh diệt là thường.
- A-Nan, người tu thiền-định,
do mất chánh-kiến, mê-mờ tánh Bồ-đề, khởi ra bốn món chấp thường trên, nên đều đọa
về ngoại đạo.
3.
Chấp một phần thường, một phần vô thường.
- Người tu thiền-định,
khi tưởng-ấm hết, nghiên-cứu cùng-tột cội gốc của sanh-loại, rồi khởi ra bốn lối
chấp điên-đảo:
1. Chấp tâm là thường, chúng-sanh
vô-thường.-
Hành-giả khi quán tâm mình yên-lặng khắp cả mười phương, các chúng-sanh từ
trong tâm mình tự sanh và tự chết, rồi chấp tâm ta là thường, chúng-sanh vô-thường.
2. Chấp thế-giới, những chỗ
bị hoại là vô-thường, những chỗ không hoại là thường.
-Người tu thiền-định quán-sát cả
mười phương thế-giới, chỗ kiếp hoại
(như từ tam-thiền trở
xuống bị tam tai làm hoại) thì chấp vô-thường; những chỗ không hoại thì chấp là thường
(từ tứ-thiền trở lên, tam-tai không làm hoại được, chấp cho là cứu-cánh
Niết-bàn)
3. Chấp cái tâm là thường,
còn sanh-tử vô-thường.-
Người tu thiền-định, quán-sát tâm mình không biến-đổi, nó nhỏ-nhiệm tinh-vi
như hạt bụi và lưu-chuyển cả mười phương, lại khiến cho thân này sanh và diệt mà
nó không không biến-đổi; nên chấp cho:“Tâm
là thường; tất cả các vật đều từ tâm sanh ra, có sanh-tử nên vô-thường”.
4. Chấp hành-ấm thường; sắc,
thọ, tưởng là vô-thường.-
Người tu thiền-định, khi thấy sắc, thọ, tưởng ba ấm trước đã diệt, nên chấp
là vô-thường, thấy hành-ấm lưu-chuyên thường còn nên chấp là thường.
- Bốn lối chấp trên,
đều sai lầm cả, do mê-muội tánh Bồ-đề, mất chánh-kiến, nên đọa về ngoại đạo.
4.
Chấp có bốn món biên-giới.
- Người tu thiền-định,
khi tưởng-ấm hết rồi, thấy đưọc cùng tột cội gốc của sanh-loại, lúc bấy giờ khởi
ra bốn lối chấp có biên-giới:
1. Chấp ba đời.
-Người tu thiền-định, lúc bấy giờ
chấp tâm niện hiện-tại tương-tục (hành-ấm) là vô-biên, còn quá-khứ và vị-lai là
hữu-biên.
2. Chấp chúng-sanh.
-Người tu thiền-định vì chỉ thấy
được chúng-sanh trong tám vạn kiếp, nên chấp là hữu-biên; còn trước tám vạn kiếp
thì tịch-mịch không thấy và cũng không nghe, nên chấp là vô-biên.
3. Chấp tâm-tánh.
-Người tu thiền-định khi thấy tâm
mình biến khắp và biến ra tất cả người, nên khởi lên chấp tâm ta vô-biên.
Còn tất cả người đều ở trong tâm ta, là hữu-biên.
4. Chấp sanh-diệt.
-Người tu thiền-định, khi cùng tột
hành-ấm, thấy được tâm mình, sanh tâm chấp tất cả chúng-sanh và thế-giới đều có
phân nửa sanh và phân nửa diệt; sanh là hữu-biên, diệt là vô-biên.
- Các lối tà-chấp trên,
đều do trong khi tu thiền mất chánh-kiến, mê-mờ tánh Bồ-đề, nên đều đọa về ngoại
đạo cả.
5.
Bốn món luận-nghị rối loạn, không nhứt định.
- Người tu thiền-định,
khi tưởng-ấm hết, liền khởi ra bốn lối chấp điên-đảo không nhất-định:
1. Chấp tám món cũng.
-Người tu thiền-định, khi quán-sát
nguồn-gốc biến-hóa của muôn vật, thấy có chỗ thì biến-đổi, có chỗ lại thường còn;
có cái sanh, có cái diệt; có pháp tăng, có vật giảm, có cái có, có cái không. Bởi thế nên có ai đến hỏi đạo thì nói rằng:
“Cũng biến, cũng bằng, cũng sanh, cũng diệt, cũng tăng, cũng giảm, cũng có, cũng
không”.Lúc nào cũng nói rối loạn như vậy,
làm cho người không hiểu chi cả.
2. Chấy duy cái “không”.
-Người tu thiền-định, vì quán cả
tâm và pháp đều không; rồi cứ chấp ở nơi cái “không”.
Có ai đến hỏi đạo thì họ chỉ đáp một chữ “không”; ngoài cái “không” ra thì
không còn chi nói nữa cả.
3. Chấp duy cái “có”.
-
Người tu thiền-định, do quán-sát tâm mình biến khắp tất cả, chỗ nào cũng
có, rồi cứ chấp ở nơi cái “có”.Có ai đến
hỏi đạo, thì họ chỉ nói một chữ “có”; ngoài cái “có” ra thì không còn gì nói nữa
cả.
4. Chấp “cũng có” và “cũng
không”.-
Người tu thiền-định vì thấy ở nơi cảnh đã lăng-xăng, còn tâm thì rối loạn,
nên có người đến hỏi đạo thì đáp rằng:“Cái
cũng có” cũng tức là “cái cũng không”; trong cái “cũng không” cũng tức là cái “cũng
có”.Lúc nào họ cũng nói rối-loạn như vậy,
không ai gạn cùng được.
- Người tu thiền-định
vì mất chánh-kiến, mê-mờ tánh Bồ-đề, khởi ra các lối chấp như vậy, nên đều đọa về
ngoại đạo.
6.
Chấp mười sáu tướng có.
- Người tu thiền-định
khi tưởng-ấm hết, chỉ còn hành-ấm diêu-động, thấy một nguồn sống vô-tận; nên sanh
tâm chấp cho “chết rồi còn có tướng”.
- Chấp về sắc-uẩn có
bốn:
1. Chấp sắc-uẩn là “ta”.
2. Chấp “ta” có sắc-uẩn.
3. Chấp sắc-uẩn thuộc nơi “ta”.
4. Chấp “ta” ở nơi sắc-uẩn.
- Còn thọ, tưởng, hành
mỗi uẩn cũng đều có bốn lối chấp như vậy, cộng thành mười sáu tướng.
Hoặc chấp phiền-não và Bồ-đề hai tánh thật có, hết phiền-não mới được Bồ-đề;
hai tánh không chung gặp nhau.
- Vì hành-giả trong
lúc tu thiền, mất chánh-tri-kiến, mê-mờ tánh Bồ-đề, khởi ra các lối tà chấp trên,
nên đọa về ngoại đạo.
7.
Chấp tám món vô thường.
- Người tu thiền-định
khi sắc, thọ, tưởng đã diệt rồi, lúc bấy giờ thấy thân hình hiện-tiền đây còn không
thật có, thì khi chết rồi làm gì lại có các hình-tướng.
Vì so-sánh như vậy, nên chấp chết rồi không có hình-tưóng.
- Chấp sắc-ấm như vậy
thì thọ, tưởng, hành cũng vậy.
(Chấp hiện-tại và vị-lai đều không-tướng)
, thành ra tám món vô-tướng. Hoặc chấp Niết-bàn chỉ có cái tên suông, không
có nhơn-quả, rốt-ráo đoạn-diệt.
- Vì hành-giả mê-mờ
tánh Bồ-đề, mất chánh-tri-kiến, khởi ra các lối tà-chấp như vậy, nên đều đọa về
ngoại đạo.
8.
Chấp tám món cu-phi.
- Người tu thiền-định,
đối với ba ấm: sắc, thọ và tưởng, trước kia thấy có mà nay lại không.
Còn đối với hành-ấm thiên-lưu hiện nay thì có mà về sau lại không.
Vì chấp mỗi ấm đều có hai tướng:Chết
rồi phi-hữu và phi-vô, cả bốn ấm thành ra tám tướng.
Bởi hành-giả mê-mờ tánh Bồ-đề, mất chánh-tri-kiến nên đều đọa về ngoại đạo.
9.
Chấp bảy món đoạn diệt.
- Người tu thiền-định,
khởi ra các chấp:Cõi dục thì “sắc-thân”
diệt hết; cõi Sơ-thiền các “dục” diệt hết; cõi Nhị-thiền các “khổ” diệt hết; cõi
Tam-thiền các “vui” diệt hết; cõi Tứ-thiền các “xả” diệt hết.
- Như vậy xoay-vần
cùng tột cả năm nơi đều chấp hiện-tiền tiêu-diệt, diệt rồi không sanh trở lại. Vì hành-giả mê-mờ tánh Bồ-đề, mất chánh-tri-kiến,
sanh các lối tà-chấp như vậy, nên đọa về ngoại đạo.
10.
Chấp năm món Niết-bàn hiện-tại.
- Người tu thiền-định,
khi thọ-ấm hết, xét cùng cội-gốc của sanh-loại, khởi ra chấp năm chỗ Niết-bàn:
1. Chấp Dục-giới là cảnh Niết-bàn.
2. Chấp cõi Sơ-thiền là Niết-bàn.
3. Chấp Nhị-thiền là Niết-bàn.
4. Chấp Tam-thiền là Niết-bàn.
5. Chấp cõi Tứ-thiền là Niết-bàn.
- Vì hành-giả mê-mờ
tánh Bồ-đề, chấp năm cảnh vui cõi trời hữu-lậu mà cho là vô-vi Niết-bàn, nên đọa
về ngoại đạo.
TÓM LẠI
- A-Nan, mười cảnh
ma về hành-ấm này, là do hành-giả dụng tâm sai lầm nên mới sanh ra như vậy. Vì hành-giẳ mê-mờ không biết, tự cho là chứng
Thánh, sanh đại-vọng-ngữ, nên đọa vào địa-ngục vô-gián.
Vậy các ông nên đem các việc ma này, truyền dạy cho chúng-sanh đời sau, chớ
để cho người tu thiền bị tâm ma khởi lên làm hại đến thế.
Các ông phải bảo-hộ người tu-hành đi thẳng đến đạo Bồ-đề, chớ để cho họ gặp
con đường chia tế.
II. MƯỜI MÓN MA VỀ THỨC-ẤM
1.
Chấp minh-đế.
- Người tu thiền-định,
khi hành-ấm hết, chỉ còn thức-ấm, các tướng sanh-diệt đã hết, mà tâm thanh-tịnh
tịch-diệt chưa hệt bày.Lúc bấy giờ nếu hành-giả
móng tâm chấp là chơn-thường, thì mất chánh-kiến, mê-mờ tánh Bồ-đề, thành bè-bạnh
với phái ngoại đạo Ta-tỳ-ca-la, chấp minh-đế (sơ tướng A-lại-da) là cái chỗ trở
về của vạn-vật, trái với thành Niết-bàn, đọa về ngoại đạo.
2.
Chấp năng-sanh.
- Người tu thiền-định,
khi hành-ấm hết, các tướng sanh-diệt đã diệt, mà tâm thanh-tịnh tịch-diệt chưa hiện,
khi đó thấy thức-tâm mình châu biến, rồi khởi ra cái chấp:
“Tất cả chúng-sanh đều do ta sanh ra”.
Vì sanh tâm chấp như thế, nên mất chánh-kiến, mê-lầm tánh Bồ-đề, thành bà con của
trời Ðại-ngã-mạn (Ma-hê-thủ-la-thiên).
3.
Chấp chơn-thường.
- Người tu thiền-định,
khi hành-ấm hết, thức-ấm hiện ra, rồi sanh tâm nghi:
Thân mình và mười phương hư-không đều từ thức kia hiện ra, nên sanh tâm chấp
cho “Thức là chơn-thường”, mất chánh-kiến, mê tánh Bồ-đề, thành bè-bạn của trời
Tự-tại.
4.
Chấp cây cỏ cũng đều có biết.
- Người tu thiền-định,
khi hành-ấm hết, tướng sanh-diệt đã diệt, chơn-tâm tịch-diệt chưa hiện-bày, lúc
bấy giờ thấy thức-ấm biến khắp tất cả, rồi sanh tâm chấp:
“Mười phương cây cỏ cũng đều là hữu-tình, cùng với người không khác. Cỏ cây chết làm người, người chết trở lại
làm cỏ cây”.Vì mê-mờ tánh Bồ-đề, mất chánh-kiến,
nên sẽ làm bè-bạn với hai chúng ngoại đạo Bà-tra và Tán-ni, chấp tất cả vạn-vật
đều có tri-giác (biết).
5.
Chấp tứ-đại hóa sanh.
- Người tu thiền-định,
khi hành-ấm hết, chơn-tâm chưa hiện, lúc bấy giờ thấy lửa sáng, nước trong, gió
động, đất cứng, do bốn món này sanh ra các vật, rồi chấp cho là thường còn, hết
lòng cung-kính phụng-thờ.Như ông Ca-diếp-ba
và phái Bà-la-môn thờ lửa, thờ nước v.v… để cầu ra khỏi sanh-tử, mê-mờ tánh Bồ-đề,
mất chánh-kiến, đọa làm ngoại đạo.
6.
Chấp hư-vô.
- Người tu thiền-định,
khi hành-ấm hết, thấy thức-ấm viên-minh, rồi sanh ra chấp cái thức-ấm hư-vô, là
chỗ nương của muôn vật, tất cả các vật đề về chỗ hư.
Vì vậy mà mất chánh-kiến, mê-mờ tánh Bồ-đề nên thành bè-bạn với trời Vô-tướng,
Tứ-không và thần Hư-không.
7.
Tham cầu sống lâu.
- Người tu thiền-định
khởi tâm tham cầu thân này thường còn, cố làm cho thân này được sống hoài không
chết, nên thành bè-bạn của tiên A-tư-đà, cầu mạng sống lâu, mê-mờ tánh Bồ-đề, mất
chánh-kiến, đọa về ngoại đạo.
8.
Tham luyến cảnh dục.
- Người tu thiền-định,
khi hành-ấm hết, lúc bấy giờ thấy thân-thể và thức-tâm tiêu diệt, cho nên sanh tâm
lưu-luyến lại cảnh trần, tự biến-hóa ra nhiều cảnh báu đẹp và nhiều mỹ-nữ, rồi mặc
tình vui-thú.Vì mất chánh-kiến, mê-mờ tánh
Bồ-đề, nên thành bè-bạn của thiên-ma ở cõi trời Tự-tại (trên đảnh cõi Dục).
9.
Ðịnh tánh Thinh-văn.
- Người tu thiền-định,
khi hành-ấm hết, các tướng sanh-diệt đã diệt, mà chơn-tâm tịch-diệt chưa viên, lúc
bấy giờ khởi tâm tham-luyến ở chỗ không-tịch, chẳng muốn tăng-tiến, vì mất chánh-kiến,
mê-mờ tánh Bồ-đề, đọa về hàng Ðịnh-tánh Thinh-văn, như ông Vô-văn Tỳ-kheo, sanh
tâm tăng-thượng-mạn.
10.
Ðịnh tánh Duyên-giác.
- Người tu thiền-định,
khi hành-ấm hết, chỉ thấy một màu thanh-tịnh sáng-suốt, lúc bấy giờ sanh tâm chấp
cho đó là Niết-bàn; rồi tham-trước ở cảnh này, không cầu tăng-tiến, mê-mờ tánh Bồ-đề,
mất chánh-kiến, nên đọa về hàng Ðịnh-tánh Duyên-giác.
TÓM LẠI
- A-Nan, mười món ma
này, do người tu thiền, khi dụng tâm phá-trừ thức-ấm, nên nó biến hiện ra các cảnh
như vậy.Vì mất chánh-tri-kiến, mê-lầm tánh
Bồ-đề, khởi tâm chấp trước, cho mình đặng thiền, đặng đạo, thành Phật, thành Thánh
v.v… có người sanh ra điên-cuồng, nên đều đọa về ngoại đạo cả.
- Vậy các ông phải
gìn-giữ nơi lòng, vâng lời ta dạy:Sau khi
ta diệt-độ rồi, các ông phải đêm lời ta dạy đây mà truyền dạy cho chúng-sanh đời
sau, bảo-hộ người tu-hành, chớ để cho chúng ma làm hại.
Trên đường tu-hành, họ được thẳng vào chỗ tri-kiến của Phật, chẳng gặp các
đường tế.
- Này A-Nan, người
trong khi tu thiền, gặp ma nó biến-hiện ra nhiều cảnh rất là vi-tế, nếu các ông
hiểu biết, rửa sạch tâm cấu-nhiễm, chẳng khởi tà-kiến, thì cảnh ma kia lần lần tiêu-diệt,
các ông sẽ đến đạo Bồ-đề.
- Còn như đời sau,
có chúng-sanh nào chẳng biết tu thiền, sợ bị các ma nhiễu-hại, thì ông nên khuyên
họ nhứt tâm trì chú Lăng-nghiêm này, để các ma-chướng kia chẳng thể hại được, rồi
cũng thẳng đến được đạo Bồ-đề.
Khi Phật nói kinh này rồi, toàn cả hội chúng, nào là :
Tăng, Ni, thiện-nam, tín-nữ, trời, người, thần A-tu-la, Thánh, Tiên, quỉ-thần,
Thinh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát, tất cả đều hoan-hỷ lễ Phật rồi trở-lui.
LƯU Ý
Quí Phật-tử đọc hết đoạn ngũ-ấm ma này rồi, từ đây về sau, trên
đường tu-hành cần phải thận-trọng, chớ nên gặp chi tin nấy, mà nguy-hiểm cho mình
về hiện-tại cũng như tương-lai.
Chúng tôi thấy trong giới Phật-tử, phần đồng là hàng phụ-nữ (xin
lỗi quí bà) lòng tin-tưởng dồi-dào lắm!Mỗi
khi thấy một việc gì lạ thường, có tính cách thần-kỳ huyễn-hoặc, không chịu bình
tâm suy xét chơn hay ngụy; cứ cho đó là Phật thị-hiện hay Bồ-tát giáng-thế v.v…
rồi rũ nhau tin tưởng theo càn, say-mê như người nghiện thuốc, rủ nhau theo rất
đông cho đến đổi cả phong-trào.Như việc
trước mắt mà quí vị đã thấy vừa qua… kết cuộc rồi thế nào quí vị đã biết rõ… Thật nguy hại vô cùng!
Nếu lỡ một phen bước vào đường tà rồi, thì trăm kiếp ngàn đời khó trở
lại.
Tôi xin dẫn một vài bằng-chứng trong kinh, để quí vị xem qua, đặng
cẩn-thận những điều nguy-hiểm trong lúc tu-hành.
Thuở xưa, Tổ Ưu-bà-quật Tôn-giả đang nhập-định, bị Thiên-ma Ba-tuần
khuấy-nhiễu.Ðến khi xuất-định, Ngài dùng
thần-thông hàng-phục được Thiên-ma.Sau khi
chúng đã hối-ngộ quy-y Tam-bảo rồi, vì cảm hồng-ân tế-độ của Tổ-sư, nên đến xin
cúng-dường Ngài một bữa cơm để tỏ lòng tri-ân.
Tổ-sư dạy:
- Ta vì chuyên lo
tu-hành, không giờ rảnh thể thụ trai.Ta
chỉ muốn xem một việc, nếu ngươi bằng lòng, thế là đền ơn cho ta rồi.
Thiên-ma nói:
- Dạ, đệ-tử xin
vâng.
Tổ-sư dạy:
- Khi Phật ra đời
đã có ngươi; vậy trong lúc đó Phật cùng các vị Thánh-chúng như thế nào?
Hôm nay ngươi hóa-hiện lại cho ta xem thử.
Thiên-ma thưa:
- Con xin vâng lời
Tổ-sư dạy.Nhưng khi con hóa-hiện ra Phật,
xin Tổ-sư nhớ đừng lạy, vì sợ tổn phước con nhiều.
Tổ-sư hứa lời.
Thiên-ma Ba-tuần liền biến mất, trong giây-phút hóa-hiện ra đức
Phật, thân vàng rực-rỡ, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, hào quang sáng chiếu khắp một
góc trời, trong rừng từ từ đi ra.Nào là
ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, A-nan, Ca-diếp đứng hầu hai bên oai-nghi tề-chỉnh,
đủ cả 1250 vị đệ-tử, rần-rộ đi theo sau…
Tổ Ưu-bà-quật Tôn-giả, thấy Phật đi đến phóng hào-quang rực-rỡ,
các vị Thánh-chúng theo hầu, oai-nghi tề-chỉnh v.v… nên hết sức vui-mừng, liền đứng
dậy đảnh-lễ, mà quên hẳn lời hứa trước kia.
Lúc bấy giờ Thiên-ma Ba-tuần biến mất.
Phật-tử chúng ta xem qua đoạn này, nên xét nghĩ:
Như Tổ Ưu-bà-quật Tôn-giả đã biết trước là ma sắp hiện và có hứa hẹn trước
“không lạy”, mà đến khi ma hiện ra còn quên, không phân-biệt là ma hay Phật. Nếu chúng ta tình-cờ gặp cảnh ngộ như thế,
thử nghĩ trong tâm chúng ta thế nào?
Bởi thế nên trên đường tu-hành, lúc nào chúng ta cũng phải cẩn-thận
cho lắm, chớ nên thấy cái gì lạ, không chịu suy xét kỹ, cứ nhắm mắt theo càn, ùa
nhau tin-tưởng cho là Thần, Thánh thật.Lỡ
một phen sa vào đường tà rồi, thì trăm kiếp ngàn đời khó trở lại.
Chúng ta nên nhớ rằng: cái gì thiệt thì nó vẫn thiệt, dù mình tin hay không
tin nó cũng không mất.Còn cái giả gì chỉ
ồ-ạt trong một thời-gian mà thôi, nếu người không tin thì nó sẽ mau tiêu-diệt.
Phật-tử các đệ-tử:“Không
nên thấy Phật cứ theo, nghe lời Phật nói cứ tin; mà phải luôn luôn suy-nghĩ, nếu
đúng chơn-lý sẽ tin theo”.Phật dạy như thế,
để cho các Phật-tử khỏi bị tà ma ngoại đạo dối gạt.
Trong kinh Kim-Cang Phật dạy:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thinh cầu ngã
Thị nhơn hành tà-đạo
Bất năng kiến Như-Lai.
Ðại-ý đoạn này Phật dạy:
Nếu người nào cho rằng thấy sắc thân của Phật có 32 tướng tốt, là thấy được Phật,
thì ông Chuyển-Luân Thánh-Vương cũng có đủ 32 tướng tốt, hoặc ma nó hóa-hiện ra
sắc thân Phật có đủ tướng tốt, vậy cũng là Phật hay sao?
-Hay nghe tiếng nói pháp thanh-tao
của Phật mà cho là nghe được tiếng Phật, thì tiếng chim Ca-lăng-tần-già, kêu rất
thanh-tao lảnh-lót, vậy cũng là tiếng nói của Phật hay sao?
Những người tin-tưởng như vậy, là theo tà-đạo, không bao giờ thấy được Phật.
Phật thường nhắc-nhở dặn-dò các đệ-tử:
Phải dùng giáo-lý chơn-chánh dạy người.
Khi người hiểu được chơn-lý rồi tin theo, thì lòng tin đó mới được chơn-chánh. Phật cấm các đệ-tử không cho dùng thần-thông
hay phép lạ để cảm-hóa người.Chỉ trừ một
vài trường-hợp: hàng-phục ngoại-đạo hoặc quỉ thần; vì sợ sau này Thiên-ma, ngoại-đạo
dùng thần-thông hay phép lạ làm mê-hoặc người.
Vì thế nên Phật không từ trên hư-không rớt xuống, hay tự nhiên xuất-hiện;
mà Ngài lại thị-hiện cũng như người, lớn lên có vợ con, rồi đi tu và thành đạo v.v…
để cho chúng-sanh sau này, đừng có tin-tưởng vào những điều huyễn-hoặc thần-kỳ.
Khi Phật còn trụ thế, có người đàn-việt đem dân cái bình-bát cho
chư tăng, lại để trên đầu một cây cột phướng cao, và thưa rằng:
“Nếu vị nào lấy được, tôi sẽ cúng cho”.
Khi đó ông Tần-Ðầu-Lô Phã-La-Ðọa-Xà Tôn-giả, dùng thần-thông lấy
cái bình-bát ấy, ông bị Phật quở trách rất nghiêm-khắc, và phạt ông phải ở lại thế-gian
ứng-cúng, làm phước-điền cho chúng-sanh, không được nhập-diệt.
Và Phật còn chế ra giới-luật cấm các đệ-tử không được dùng thần-thông hay
phép lạ trước người phàm-phu.
Trong kinh cũng có chỗ nói, các đức Phật và Bồ-tát thỉnh-thoảng
thị-hiện ra đời để hóa-độ chúng-sanh, như đức Di-Lặc hay ngài Quán-Thế-Âm v.v… Nhưng khi các Ngài hiện ra không ai biết được,
chỉ trừ đến khi tịch-diệt, các Ngài mới để lại một vài di-tích.
Chừng đó người đời mới biết Phật hay Bồ-tát thị-hiện; khi biết thì không
còn thấy các Ngài nữa.
Như đức Di-Lặc Bồ-tát hiện thân làm vị Bố-đại Hòa-thượng.
Ngài thường xách cái bị lớn bằng vải, đi khắp đó đây để hóa-độ chúng-sanh,
mà người đời không ai biết, chỉ gọi Ngài là vị Bố-đại Hòa-thượng (1).
Ðến khi Ngài thị-tịch, nói một bài kệ, lúc bấy giờ người ta mới biết là đức
Di-Lặc Bồ-tát hiện thân.
Bài kệ:
Di-Lặc chơn Di-Lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân giai bất thức.
Nghĩa là:Di-Lặc thật là
Di-Lặc, biến-hóa trăm ngàn muôn ức thân hình; thường thường thị-hiện độ người, mà
người đời chẳng ai biết.
(1)Bố-đại Hòa-thượng là vị
Hòa-thượng tay cầm cái đãy lớn bằng vải.
Người mập bụng to, sắc mặt thường hoan-hỷ.
Hiện nay ở các chùa phần nhiều đều có thờ, người đời thường gọi là đức Di-Lặc.
C. Kết-luận
- Ðại-ý toàn cả bộ
kinh này, Phật dạy chúng-sanh phải trở về với thể-tánh chơn-tâm thường-trụ, đồng
với ý-nghĩa như trong kinh Pháp-Hoa:“Khai
ngộ chúng-sanh nhập Phật tri kiến”.
- Phật đã dạy cho
chúng ta biết rằng:Chư Phật và chúng-sanh
cũng đồng một bản-thể chơn-tâm không khác.
Vì chúng-sanh mê-muội thể-tánh chơn-tâm này, nên phải chịu sanh-tử luân-hồi; còn
chư Phật đã ngộ chơn-tâm nên được tự-tại giải-thoát.
Vì vậy mà Phật dạy:“Ta là Phật đã
thành, còn các chúng-sanh là Phật sẽ thành”.
- Nguyên-nhân Phật
nói Kinh này, là do Ngài A-Nan thị-hiện mắc nạn, bị nàng Ma-đăng-già bắt.
Sau khi nhờ Phật cứu-độ được thoát nạn rồi, Ngài mới cầu Phật chỉ dạy cho
phương-pháp nào mà mười phương các đức Phật tu-hành đều được thành đạo chứng quả.
- Nhơn đó Phật nói
kinh Lăng-nghiêm, để chỉ rõ chơn-tâm.Nếu
giác-ngộ được chơn-tâm là được thành Phật.
Ðó là một con đường duy-nhứt của chư Phật quá-khứ, hiện-tại cũng như vị-lai.
- Trước khi chỉ chơn-tâm
thì Phật gạn hỏi cái tâm theo thường-tình chúng-sanh vọng-chấp.
Bảy đoạn hỏi tâm làm cho Ngài A-Nan cùng đường tột lối; lúc bấy giờ Phật
mới từ từ chỉ cái Tâm đến sáu lần.Ban đầu
Phật tạm chỉ các cảm-giác về phần trực-giác như thấy, nghe v.v… làm tâm.
Khi A-Nan và đại-chúng đều hiểu rồi, Phật lại chỉ lên một từng nữa là: “Các
cảm-giác tuy không phải vọng, nhưng cũng chưa phải là chơn-tâm, nó cũng như mặt
trăng thứ hai v.v…”Phật lại chỉ cái Bản-thể
sanh ra các cảm-giác (hiện-tượng) mới thật là chơn-tâm.
Tức là ở về đoạn trong văn kinh chữ Tàu chép “kiến kiến chi thời, kiến phi
thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập v.v…”
- Phật dạy:
Vì các ông còn ở trong vòng mê, nên chỉ gọi là các cảm-giác: thấy, nghe,
hay, biết của chúng-sanh.Ðến khi ngộ rồi
thì gọi là bốn đức Niết-bàn của Phật: thường, lạc, ngã, tịnh.
Và Phật dạy:Tất cả các pháp đều từ
tâm biến-hiện, như năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới và bảy đại đều do
tâm sanh ra, rồi cũng trở về thể-tánh chơn-tâm.
Thế là Ngài dẫn các tướng qui về chơn-tánh.
- Ðéen đoạn này Ngài
A-Nan mới ngộ được chơn-tâm, nên đứng dậy lạy Phật và xứng theo thể-tánh chơn-tâm
rộng lớn, phát lời thệ-nguyện rộng xâu vô tận.
- Ngài nguyện rằng: “Trong đời ngũ-trược tội ác, con thề vào trước
để độ chúng-sanh; nếu còn có một chúng-sanh nào chưa thành Phật thì con thề chẳng
lãnh quả vui Niết-bàn…”Và câu: “Hư-không
kia có thể tiêu hết, chớ chí nguyện của con đây không hề lay chuyển”.
Cũng vì ngộ được đồng-thể chơn-tâm, nên Ngài mới phát lời thệ-nguyện rộng
lớn như thế.
- Mình đã được độ,
muốn cho chúng-sanh cũng đều được độ, nên Ngài A-Nan cầu Phật chỉ dạy phương-pháp
tu-hành cho chúng-sanh đời sau.
- Phật dạy có ba việc:
1. Khi đối cảnh không khởi vọng-niệm
phân-biệt theo vọng-trần; tức là câu “bất tùy phân-biệt”.
Nghĩa là, xoay các cảm-giác như thấy, nghe, hay, biết đều trở về thể-tánh
chơn-tâm.Nếu vọng-tâm không khởi thì chơn-tâm
hiện bày, đây là một pháp tu trực-chỉ của bực thượng-căn.
2. Phật dạy trì-giới.
Nhơn trì-giới tâm được thanh-tịnh, nhờ tâm tịnh mới phát sanh ra trí-huệ,
để phá trừ vô-minh.Vô-minh hết thì chơn-tâm
tự hiện bày.Nhưng trong kinh này nói trì-giới
là chỉ cho tâm-giới.Nghĩa là thân đã không
sát, đạo, dâm, vọng mà tâm cũng không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng, cho
đến cái “biết mình đã đoạn trừ” cũng không còn.
Thật là cao-siêu vô cùng, khó-khăn tột bực.
Vì nếu tâm còn móng một tý vọng-niệm gì, thế là tâm chưa tịnh.
Nếu tâm chưa tịnh thì giới-thể chưa viên.
3. Phật dạy, nếu người nào nghiệp-chướng
nặng-nề, thì nên chí-tâm trì-tụng chú Lăng-Nghiêm, dù nghiệp-chướng nặng-nề đến
đâu cũng lần lần tiêu hết, phước lành tăng-trưởng, sẽ thành đạo Bồ-đề; như thuận
gió tung bụi, chẳng có khó-khăn gì.
- Trên đường tu-hành,
Phật dạy phải trải qua các địa-vị như: Thập-tín, Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng. Tứ-gia-hạnh, Thập-địa và Ðẳng-giác là năm
mươi lăm vị, rồi mới đến Phật.
- Trong khi tu Thiền-định
lại gặp năm chục thứ ma (sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mỗi ấm có mười) nó biến hiện
đủ điều, nào là ma nội-tâm, ma ngoại-cảnh, đủ cách nhiễu-hại hành-giả.
Cho đến khi thành Phật mà nó cũng vẫn còn theo phá.
Như Thái-tử Sĩ-đạt-ta, trước giờ phút đại-ngộ dưới cây Bồ-đề, vẫn còn bị
ba người con của Ma-vương tận-lực khuấy-nhiễu.
Ðến sao mai sắp mọc, Ngài được thành Phật mới hết.
- Sau mỗi đoạn ma
hiện, Phật đều dạy rằng:“Do hành-giả dụng
công tu thiền, nên nó biến hiện ra như vậy, không phải là đặng đạo chứng Thánh,
nếu hành-giả biết trước, thì các cảnh ma kia lần lần tiêu-diệt không hại chi, còn
mê lầm không biết, cho mình đặng đạo hay chứng Thánh, sanh tâm chấp-trước, thì bị
ma nó cám-dỗ, rồi phải đọa đường tà, làm quyến-thuộc của ma”.
- Bởi thế, nên người
tu-hành cần phải thận-trọng, chớ nên gặp chi tin nấy mà bị ma cám-dỗ, rất nguy-hiểm
cho đời mình về hiện-tại cũng như vị-lai.
- Phật nhắc đi nói
lại nhiều lần, bảo các đệ-tử:“Nên đem lời
ta nói đây truyền dạy cho chúng-sanh đời sau, khiến cho mọi người đều biết rõ, để
tránh khỏi các ma nhiễu-hại, trên đường tu-hành được thẳng đến đạo Bồ-đề”.
- Phật lại tha-thiết
kêu gọi các đệ-tử:Hôm nay các ông đã được
ta tế-độ rồi, vậy các ông không nên nhập-diệt sớm, mà phải nguyện ở lại đời mạt-pháp,
để bảo-hộ người tu-hành đời sau, thế mới là người biết ơn Phật.
- Lòng từ của Phật
thật là vô-biên, tế-độ chúng-sanh không cùng tận, thương chúng ta như mẹ thương
con, dạy dỗ chúng ta như mẹ hiền khuyên con dại; nhắc đi lặp lại nhiều lần không
biết mỏi.Thật đúng với câu:
“Ðại-từ đại-bi mẫn chúng-sinh.Ðại-hỷ,
đại-xả tế hàm-thức…”
- Phật-tử chúng ta phải
làm thế nào để khỏi phụ lòng thương yêu của Từ-phụ, cho xứng với danh từ “Phật-tử”.