VĂN KHUYÊN-TU ( I )
Vóc bào ảnh lắm người yêu tiếc
Yêu tiếc thân cho thiệt vì thân
Cuộc vui những ước vô ngần
Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu!
Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ
Chất huyển-hư giọt lộ lồng hoa
Đôi mươi trẻ, chín mươi già
Số phần yểu thọ khó qua vô-thường
Dép dưới giường, lên giường vội biệt
Sống ngày nay, dễ biết ngày mai?
Mạng người hô-hấp kinh thay
Nghĩ cơn vĩnh-biệt tuyền đài mà đau
Xót duyên kiếp vì sao ngắn-ngủi
Chấp thân chi để tủi cho thân
Da bao những thịt xương gân
Xác nầy dường thể đống phân sạch gì?
Tóc, răng, móng khác chi đất bợn
Mũi, dãi, đàm nên tởm xiết bao!
Bên ngoài rệp đốt muổi đeo
Bên trong sán, lải lẫn vào nhớp chưa?
Nỗi nóng bức ngày trưa tiết hạ
Cơn lạnh-lùng, đêm giá trời đông
Xét thân nhơ khổ vô cùng
Dứt lòng tham luyến, khởi lòng thoát-ly
Trách người thế mê chi lắm nhẽ
Sánh phong-lưu phô vẻ y-quan
Kẻ khờ cũng học đài-trang
Để lòng điên-đảo theo đàng sắc thanh
Đầu xương sọ cài trâm thắt lụa
Đảy da hôi ướp xạ xông hương
Khéo đòi nhung gấm phô-trương
Chỉ tuồng che lớp vô-thường hôi tanh
Những mãn tưởng ngày xanh muôn tuổi
Lắm cơ mưu đeo đuổi yên hoa
Ngờ đâu tai điếc, mắt lòa
Diêm-Vương sắp rước đến tòa U-minh
Làn tóc bạc đưa tin quỉ-sứ
Gốc răng long điểm chỉ qui âm
Càng tài, càng sắc, càng dâm
Càng thêm đọa lạc càng lầm mà thôi
Cuộc hành lạc một thời thương tiếc
Nẽo luân-hồi muôn kiếp đắng cay
Đến khi sắp xuống diêm-đài
Thịt xương đau nhức, chân tay rụng rời
Vợ lưu-luyến đầy vơi giọt lệ
Con thảm-thương kể lễ khóc than
Dù cho quyến thuộc trăm ngàn
Có ai thay thế cho chàng được chăng
Kẻ sống ở nặng quằn gánh tủi
Người chết đi dong ruổi phách hồn
Đường âm mờ tựa đêm hôm
Trông ra quạnh quẻ bồn-chồn thảm-thê
Nại-hà đến lạnh tê gió lốc
Quỉ môn sang ghê gốc tiếng thương
Bảy ngày lìa quá cõi dương
Âm-ty đã trải trăm đường hỏi tra
Tào-quan xử thét la chẳng vị
Ngục tốt hờn tay chủy, tay xoa
Đài gương nghiệp cảnh sáng lòa
Soi tường thiện ác chối qua được nào
Người nhân đức cho vào cửa phước
Kẻ hung hoang giải trước hình ty
Đọa-đày khổ-sở xiết chi
Mới hay nhân-quả mấy khi sai lầm
Rừng đao kiếm bao năm hết tội
Kiếp sừng lông nhiều nỗi đa mang
Trả đền cho dứt nghiệp oan
Mới mong thoát khỏi con đàng long-đong
Dù ai có to lòng, lớn mật
Mặc chàng hay báng Phật khinh Tăng
Chẳng qua đối trước Diêm-quân
Cúi đầu co gối chịu phần xử tra
Hồn phách đã xa chơi âm-giới
Thi hài còn ở cõi dương-gian
Có tiền mua lớp áo quan
Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh-lùng
Chất da thịt sẽ cùng tan rả
Tấm hình hài lần hóa tanh hôi
Chỉ trong chầy sớm mà thôi
Chầy năm bảy tháng sớm thời ít hôm
Nét kiều-diễm chập chờn xuân mộng
Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân
Khi xưa, tài sắc mười phần
Mà nay một nắm cô phần lạnh tanh
Thời oanh-liệt hùng anh đâu tá
Cuộc ái-ân hư-giả còn chi
Phất phơ cành liễu xanh rì
Giấy tiền treo đó dường nghi mối sầu
Bóng chiều rũ xuống màu cỏ biếc
Bia mồ trơ một chiếc vắng không
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng
Đời người đến thế là xong một đời
Ví chăng biết tìm nơi giải-thoát
Nương về ngôi chánh-giác qui-y
Luân-hồi hẳn dứt có khi
Bên trời bát-nhã còn chi lo phiền
Lối ma quỉ đừng riêng mưu sống
Đất từ-bi gieo giống hoa-đàm
Giữ lòng thiện dứt lòng tham
Gái, trai, Tăng, tục đều kham tu-hành
Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng
Biết miền chơn, kíp chóng tu chơn
Dần dà tính thiệt so hơn
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau
Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm
Chín phẩm đài sen chiếm ngôi vinh
Chớ nên mình phụ lấy mình
Trách sao Diêm-lão vô-tình chẳng dung
Bỏ điều ác xin làm theo thiện
Chừa lỗi xưa tu tiến đường sau
Lại vì quyến-thuộc bảo nhau
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì
Khiến mỗi kẻ đồng qui bến giác
Cho mọi người đều thoát sông mê
Dù trong lao khổ dám nề
Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin…
Nguyền xin dốc tưởng tin lời
Thánh Dám để cho rồi rảnh ưu-du
Kiếp nầy chẳng gắng chuyên tu
Còn e kiếp khác công-phu lỡ-làng
VĂN KHUYÊN-TU ( II )
Từ vô-thỉ một màu thanh-tịnh
Vẫn bao la chẳng bến chẳng bờ
Không, không dơ sạch, sạch dơ
Không tăng, không giảm hư-vô không bằng
Lạc một bước sa chân mang hổ
Phải vô-minh lắm nỗi truân chuyên
Vào ra lục-đạo triền-miên
Làm thân tứ-loại thảm phiền biết bao
Gây tội ác càng cao càng nặng
Núi thiết-vi khó đặng thoát ra
Ở trong khắp hết Ta-bà
Mang thân thọ khổ kể mà sao xong
Thế có lẽ theo dòng bể khổ
Cho rằng vui mà nỡ đắm say
Một mai thân đã đến ngày
Ôi thôi! Hồn biết giờ nầy đi đâu?
Hoặc địa-ngục, hoặc đầu-thai thú
A-Tu-La, ngạ-quỉ chăng là
Ngục hình thọ khổ kêu la
Súc sanh đày đọa Tu-La ưu-phiền
Lũ ngạ-quỉ huyên-thiên vô-số
Chịu đoái-hoài lữa đỏ tứ-tung
Xung quanh những cảnh não nùng
Lâm ly thống thiết khôn cùng xót xa
May gặp lúc người ta để bước
Chốn trần-gian mà lướt chông gai
Kẻ mê đắm đuối hướt hài
Mãn rôì thế cuộc hình hài ra tro
Còn kẻ trí tò mò xét nghĩ
Cái thân nầy có tý nào vui
Trải qua một cuộc tới lui
Lưng còm gối mỏi xa trời gần hang
Để mắt ngó gò-hoang nghĩa-địa
Cỏ xanh rì mai mỉa người ta
Kẻ giàu người khó khác thôi
Mãn phần rồi cũng về nơi chốn nầy
Kẻ sang trọng với người hèn hạ
Ba tấc hơi mồ mả chung đây
Người già người trẻ bằng nay
Cũng đồng gởi xác ra ngoài gò hoang
Kìa phụ-nữ nọ chàng nam-tử
Lúc chung qui đều ngự cỏ xanh
Kẻ đuôi người điếc lưu-manh
Hồn qui dị lộ gởi mình hang sâu
Kẻ vương-bá công-hầu tể-tướng
Lâm trận đồ cũng mượn gò kia
Ai ôi ! nghĩ kỹ ai bì
Cái thân không thiệt hồn đi nơi nào
Sực tỉnh lại mau tu tập
Kíp qui-y Phật, Pháp cùng Tăng
Hôm mai giới-luật ân-cần
Chuyên câu niệm Phật độ thân cho rồi
Kìa cực-lạc là nơi an-dưỡng
Đất lưu-ly vô-lượng khiết-tinh
Có ao thất-bảo quang-minh
Có sen chín phẩm lớn Kình bánh xe
Lại thất-bảo ngỏa ngoê đẹp đẽ
Nước bát-đức sạch sẽ tinh-vi
Bảy hàng cây báu lưu-ly
Lan-can bảy lớp ma-ni sáng ngời
Chim nói pháp hôm mai êm dịu
Hoa trên không nhiêu nhiểu khắp cùng
Khắp trong một sát độ-trung
Dị hương thanh nhạc vui mừng thảnh thơi
Nơi bảo toạ một tòa vương-pháp
A-Di-Đà nói pháp thuyết-kinh
Trang-nghiêm vô-lượng quang-minh
Hào-quang sáng chói ba thành mười phương
Đại-thế-Chí pháp-vương chi tử
Toạ liên-đài một chữ tiếp sanh
Tay cầm sen trắng thanh thanh
Bước đi thế-giới rung-rinh ba ngàn
Quán-Thế-Âm nghiêm-trang tự-tại
Chấp tịnh bình tay sái cam-lồ
Hóa thân khắp cõi hư-vô
Độ loài tam-giới tam-đồ vãng-sanh
Kẻ học Phật hiểu rành chơn-lý
Phật tức tâm lý sự tỏ tường
Tâm là tịnh khó nghĩ lường
Di-Đà cực-lạc tìm phương độ rồi
Khá suy xét ngộ rồi sẽ thấy
Ráng công-phu chớ cậy tài cao
Phải hành lục-độ dồi trau
Nhứt tâm trì niệm rồi sau đắc thành
Tín, hạnh, nguyện thi hành hằng bữa
Gắng ghi trau thở tấc lòng
Bồ-đề nảy nhánh đơm bông
Lên thuyền bát-nhã hội đồng pháp-thân
Khá ghi lời thuyết chánh chân.
|