BÀI THỨ
TƯ
PHẦN CHÁNH
TÔN
(tiếp theo)
13.
PHẬT NÓI CÔNG-ÐỨ C TRÌ KINH, NHIỀU HƠN BỐ-THÍ THẤT BẢO.
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu có người đựng đầy bảy báu trong đại thế-giới (một nghìn triệu
thế-giới nhỏ) đem bố-thí (tài thí), thì phước đức nhiều không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Nhiều lắm.
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này, hoặc vì người giảng nói
trọn quyển hoặc nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì công-đức (pháp thí)
của người này nhiều hơn người trước. Tại sao vậy? Vì tất cả Phật và
Pháp đều từ kinh này mà sanh ra.
Phật dạy tiếp:
-
Tu-Bồ-Ðề! Gọi là “Phật, Pháp”, thực ra cũng không phải “Phật, Pháp”, chỉ tạm
gọi là “Phật, Pháp”.
LƯỢC
GIẢI
Ðây là lần thứ hai, Phật nói về công-đức thọ-trì đọc tụng kinh này, nhiều hơn người
bố-thí thất bảo.
Ðoạn này nên chia làm ba phần để giải-thích.
a.
So-sánh phước đức giữa tài thí và pháp thí.
Ngọc ngà châu
báu là vật rất quí, đã ít có và khó kiếm, nên không ai có nhiều được. Nhưng
nếu người nào có nhiều châu báu, đựng đầy một nghìn triệu thế-giới nhỏ (đại thế-giới)
đem ra bố-thí, tất nhiên phước đức nhiều lắm.
Nhưng, nếu
có người thọ trì kinh này hoặc giảng nói cho người nghe, từ một quyển, nửa quyển,
hoặc một tờ cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì công-đức của người sau, lại nhiều
hơn người trước. Tại sao vậy? Vì bố-thí tiền tài, dù có nhiều bao nhiêu
cũng chỉ giúp về phần vật chất, làm cho người giàu có sung-sướng nhứt thời mà thôi.
Còn bố-thí về giáo-pháp là giúp về tinh thần, làm cho người hiểu biết giáo-lý tu
hành, thoát ly sanh-tử luân-hồi, kiến tánh thành Phật, rồi trở lại độ chúng-sanh
đều được giải-thoát. Bởi thế nên bố-thí pháp (tinh-thần) tuy ít, nhưng phước
đức nhiều hơn bố-thí tài (vật chất).
b.
Phật và Pháp đều từ kinh này sanh.
Kinh này là
kinh “Kim-Cang Bát-Nhã”, tức là kinh nói về “trí-huệ Phật”. Trí-huệ này phá
núi vô-minh phiền-não, nhưng không bị hư hoại, nên gọi là “Kim-Cang”.
Nhờ trí-huệ Kim-Cang Bát-Nhã phá hết vô-minh, nên mới minh tâm kiến tánh thành Phật,
nên nói “kinh nầy sanh ra chư Phật”. Và sau khi thành Phật rồi, cũng nhờ có
trí-huệ Bát-Nhã mới nói ra giáo pháp, nên nói “kinh nầy sanh ra Pháp”.
c.
Phá cái chấp “thật có Phật, Pháp”.
Ðúng theo “Tánh
Bát-Nhã Chơn-không”, thì nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, nên không có
thể kêu gọi là gì được cả. Nhưng sở dĩ gọi “Phật, Pháp”, là một danh từ, đặt
ra để gọi tạm mà thôi; thật ra cũng không phải là “Phật, Pháp”. Nếu còn chấp
“thật có Phật, Pháp” thì không đúng với “Tánh Bát-Nhã Chơn-không”, nên Phật dạy:
“Gọi là Phật Pháp, thực ra cũng không phải Phật Pháp, chỉ tạm gọi là Phật Pháp”.
GIẢI
DANH TỪ
Bảy món báu: Vàng, bạc, ngọc lưu-ly, ngọc xa-cừ, ngọc mã-não,
ngọc san-hô và ngọc hổ-phách.
Ðại thế-giới: tức là Ðại-thiên thế-giới. Thế-giới chúng
ta ở đây là một thế-giới nhỏ; 1.000 thế-giới nhỏ, gọi là “Tiểu-thiên thế-giới”;
1.000 Tiểu-thiên thế-giới, gọi là “Trung-thiên thế-giới”; 1.000 Trung-thiên thế-giới,
gọi là “Ðại-thiên thế-giới”. Một Ðại-thiên thế-giới là một nghìn triệu thế-giới
nhỏ. Thế-giới Ta-bà là một Ðại-thiên thế-giới.
Kệ: Một bài kệ là 4 câu, hoặc nhiều câu, như thơ tứ cú, bát cú
v.v… ở nước ta.
Thọ-tri: Lãnh-thọ và hành-trì.
14.
BỐN QUẢ THINH-VĂN, KHÔNG NÊN CHẤP MÌNH CÓ CHỨNG QUẢ.
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu vị Tu-đà-hoàn tự nghĩ rằng: “Tôi đã đặng quả Tu-đà-hoàn”; nghĩ
như thế có được không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Không thể được. Tại sao vậy? - Vị Tu-đà-hoàn, phải không
còn thấy mình có chứng quả Tu-đà-hoàn (Tàu dịch Nhập-lưu), thế mới thật là chứng
quả Tu-đà-hoàn.
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu vị Tư-đà-hàm tự nghĩ rằng: “Tôi đã đặng quả Tư-đà-hàm”;
nghĩ như thế có được không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Không thể được. Tại sao vậy? - Vị Tư-đà-hàm, phải không
còn thấy mình có chứng quả Tư-đà-hàm (Tàu dịch Nhứt-lai), thế mới thật là chứng
quả Tư-đà-hàm.
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu vị A-na-hàm tự nghĩ rằng: “Tôi đã đặng quả A-na-hàm”;
nghĩ như thế có đặng không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Không thể được. Tại sao vậy? - Vị A-na-hàm,
phải không còn thấy mình có chứng quả A-na-hàm (Tàu dịch là Bất-lai), thế mới thật
là chứng quả A-na-hàm.
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Nếu vị A-la-hán tự nghĩ rằng: “Tôi đã đặng quả A-la-hán”;
nghĩ như vậy có đặng không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Không thể được. Tại sao vậy? - Vị A-la-hán,
phải không còn thấy mình có chứng quả A-la-hán, thế mới thật là chứng quả A-la-hán.
Nếu còn thấy mình chứng quả A-la-hán tức là còn trụ chấp (dính mắc) về bốn tướng:
ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả, thì không phải thật chứng A-la-hán.
-
Bạch Thế-Tôn! Cũng như con đây, vì con không còn chấp mình có tu chứng, nên
mới được Như-Lai chứng nhận: “Tu-Bồ-Ðề đã đặng pháp Tam-muội vô tránh; Tu-Bồ-Ðề
là người ưa tu hạnh tịch-tịnh (A-lan-na); Tu-Bồ-Ðề là vị A-la-hán ly dục thứ nhứt.
Trong chúng, Tu-Bồ-Ðề là hơn hết”.
-
Bạch Thế-Tôn! Nếu con nghĩ (chấp) rằng: “Con đã đặng quả A-la-hán, con
là vị A-la-hán ly dục thứ nhứt v.v… thì Ðức Như-Lai không chứng nhận và không khen
ngợi con như vậy”.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn nầy Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã, phá trừ cái chấp của bốn quả Thinh-văn, tự thấy
mình có chứng quả.
Trong kinh Tứ-thập-nhị chương có chép:
“Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng v.v…”
Nghĩa là: Tu mà không còn chấp mình tu, thế mới thật là tu. Chứng quả, mà
không chấp mình chứng quả, thế mới thật là chứng quả v.v…
Nếu người tu chứng, đúng theo tinh thần của “Kim-Cang Bát-Nhã”, nghĩa là không còn
các vọng chấp ngã và pháp hay bốn tướng, thì mới phải thật tu và thật chứng.
Trái lại, nếu còn chấp ngã, pháp hay bốn tướng (ngã, nhơn v.v…) tức là không nhập
được “Kim-Cang Bát-Nhã”, thì không phải thật tu và thật chứng.
Bởi thế nên bốn quả Thinh-văn, nếu còn tự thấy mình có chứng quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm và A-la-hán, tức là còn chấp ngã (ta chứng đặng) và chấp pháp (quả-vị để
chứng) thì không nhập được “Kim-Cang Bát-Nhã”, nên không phải là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm và A-la-hán.
Ông Tu-Bồ-Ðề, tự đem mình ra làm thí dụ điển-hình. Ðại ý ông nói: Nếu ông
chấp rằng: “Tôi đã đặng pháp Tam-muội và đặng quả A-la-hán v.v…” tức nhiên ông còn
chấp ngã (quả A-la-hán) chấp pháp (Tam-muội), chưa nhập được Kim-Cang Bát-Nhã, thì
Phật đâu có ấn-chứng cho ông là vị A-la-hán ly dục thứ nhứt v.v…
Nài Phó Ðại-sĩ nói bài tụng giải-thích rằng:
Nguyên văn (dịch âm):
Vô sanh tức vô diệt
Vô ngã phục vô nhơn
Vĩnh trừ phiền-não chướng
Trường từ hậu hữu thân
Cảnh vong tâm diệc diệt
Vô phục khởi tham sân
Vô bi không hữu trí
Hốt nhiên độc nhậm nhơn.
Dịch nghĩa:
Không sanh cũng không diệt
Không ngã cũng không nhơn
Dứt trừ phiền-não chướng
Không còn có thân sau
Tâm cảnh đều vắng lặng
Do đâu khởi tham sân
Không bi cũng không trí
Thế mới nhập Chơn-như.
ÐẠI
Ý
Nếu không còn các vọng chấp nhơn, ngã, sanh, diệt v.v… thì các phiền-não không do
đâu sanh ra. Phiền não không sanh, tức không tạo nghiệp, nên không bị sanh
tử luân hồi. Vì tâm và cảnh đã vắng-lặng thì do đâu khởi tâm, sân, si.
Cho đến bi và trí cũng không chấp, nên chơn-tâm hay chơn-như tự hiện bày.
Tóm lại, vì không còn các vô-minh vọng-chấp: nhơn, ngã, tâm, cảnh, sanh, diệt v.v…
nên mới chứng đặng chơn-tâm thanh-tịnh. Như thế mới thật tu và thật chứng.
GIẢI
DANH TỪ
Tu-đà-hoàn: Trong bốn quả Thanh-văn của Tiểu-thừa, Tu-đà-hoàn
là quả Thánh nhỏ nhứt. Tu-đà-hoàn là dịch âm tiếng Phạn, Trung-hoa dịch là
“Dự-lưu” hoặc “Nhập lưu”, nghĩa là mới dự vào dòng Thánh-nhơn.
Tư-đà-hoàn: Quả Thánh thứ hai trong bốn quả Thanh-văn. Trung-hoa
dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa là “Nhứt-vãng-lai”; nghĩa là còn một lần qua
lại cõi nhơn, thiên để tu-hành đoạn hoặc, rồi mới chứng quả A-la-hán.
A-na-hàm: Quả Thánh thứ ba trong bốn quả. Trung-hoa dịch
âm tiếng Phạn, dịch nghĩa “Bất-lai”; nghĩa là không còn trở lại thọ sanh trong Dục-giới
nữa.
A-la-hán: Quả Thánh thứ tư trong bốn quả. Trung-hoa dịch
âm tiếng Phạn, nếu dịch nghĩa, có ba:
a.
Vô-sanh: Không còn sanh trở lại ba cõi.
b.
Sát tặc: Ðã giết hết các giặc phiền não.
c.
Ưng-cúng: Xứng đáng cho nhơn thiên cúng-dường.
Do tu nhơn
Tỳ-kheo có ba nghĩa, nên chứng quả A-la-hán cũng có ba nghĩa:
Nhơn Tỳ-kheo:
Phá ác …… Vô sanh : Quả A-la-hán
Bố ma …… Sát tặc
Khất sĩ …... Ưng cúng
Tam-muội: Trung-hoa dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa là “Chánh
định”.
Tam-muội vô-tránh: Pháp chánh-định hơn hết.
A-lan-na: Trung-hoa dịch âm tiếng Phạn; nghĩa là không ồn-ào
náo-nhiệt, vắng-vẻ thanh-tịnh, giải-thoát không bị trần-lụy.
15.
PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “NHƯ-LAI CÓ ÐẮC PHÁP”.
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Về quá-khứ đối với trước Phật Nhiên-Ðăng, ta có “đắc pháp” không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Ðức Như-Lai thật không có “đắc pháp” gì cả.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ cái chấp “Như-Lai thật có đắc pháp”.
Kinh chép: “Về quá-khứ vô lượng, vô số kiếp về trước, Ðức Thích-Ca đối trước
Phật Nhiên-Ðăng, được Ngài truyền chánh-pháp và thọ-ký, tương lai sẽ được thành
Phật, hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni”.
Nhưng, nếu Như-Lai còn chấp mình có “đắc pháp và được thọ-ký” tức là Như-Lai còn
chấp (ta được) chấp pháp (đắc pháp) thì không phải là Như-Lai. Bởi thế nên
ông Tu-Bồ-Ðề thưa: “Bạch Thế-Tôn! Như-Lai không có đắc pháp gì cả”.
Vì Như-Lai không chấp mình có “đắc pháp” và “thọ-ký”, nên không mắc vào bốn tướng:
ngã, nhơn v.v… được nhập Kim-Cang Bát-Nhã. Như thế mới thật là “đắc pháp”
và “được thọ-ký”.
16.
PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “BỒ-TÁT THẬT CÓ LÀM TRANG-NGHIÊM CÕI PHẬT”.
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Bồ-tát có làm trang-nghiêm cõi Phật không?
Tu-Bồ-Ðề thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Bồ-tát không làm trang-nghiêm cõi Phật. Tại sao vậy?
Bồ-tát làm trang-nghiêm cõi Phật, mà không thấy (chấp) mình có trang-nghiêm cõi
Phật, như thế mới thật là trang-nghiêm cõi Phật.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã phá trừ cái chấp “Bồ-tát có làm trang-nghiêm
cõi Phật”.
Bồ-tát làm các Phật sự, giáo-hóa chúng-sanh, đó là trang-nghiêm cõi Phật.
Nhưng, nếu Bồ-tát còn chấp mình có làm Phật sự, giáo-hóa chúng-sanh, thì Bồ-tát
còn tâm nhiễm-ô vọng chấp ngã (ta giáo-hóa) nhơn (người được giáo-hóa). Ðem
tâm nhiễm-ô vọng chấp mà làm “trang-nghiêm cõi Phật”, thì cõi Phật thành nhiễm-ô,
không thể “trang-nghiêm cõi Phật thanh-tịnh” được.
Trái lại, phải dùng tâm thanh-tịnh (không còn các nhiễm-ô vọng chấp, chấp ngã, chấp
pháp v.v…) mà trang-nghiêm cõi Phật, thì cõi Phật mới thanh-tịnh trang-nghiêm được.
Ngài Xuyên Thiên-sư dạy:
Nguyên văn (dịch âm):
Chánh nhơn thuyết tà pháp, tà pháp tất qui chánh
Tà nhơn thuyết chánh pháp, chánh pháp tất qui tà
Giang-Bắc thành chỉ, Giang-Nam quít
Xuân lai đô phóng nhứt ban hoa.
Dịch nghĩa:
Người chánh nói pháp tà, pháp tà tất qui chánh
Người tà nói pháp chánh, pháp chánh trở thành tà
Cũng một cây, nhưng ở Giang-Bắc thì câychỉ-xát, Giang-Nam thì thành cây quít
Xuân về đều trổ một thứ hoa.
ÐẠI
Ý
Người đem tâm đời (danh, lợi, sân, si v.v…) mà làm việc Ðạo (làm các Phật sự) thì
việc Ðạo biến thành việc đời. Trái lại, người đem tâm Ðạo (từ-bi, hỷ-xả v.v…)
mà làm việc đời (tiếp xúc làm việc với chúng-sanh) thì việc đời trở thành việc Ðạo
(tứ nhiếp pháp, ngũ minh v.v…) cũng như một thứ cây, nhưng nếu ở đất Giang-Bắc thì
thành cây chỉ-xát, trái đặc ruột và chua, ăn không được; còn ở đất Giang-Nam thì
thành cây quít, trái ngọt.
Dù việc chánh hay tà, việc đời hay đạo, đều có nhơn và có quả, chẳng qua tốt hay
xấu mà thôi. Cũng như cây chỉ-xát hay cây quít, Xuân về đều trổ một thứ hoa
và ra một thứ trái; nhưng trái quít thì ngọt, mà chỉ-xát lại chua.
17.
PHẬT DẠY: “ÐỪNG SANH VỌNG TÂM TRỤ CHẤP MỘT NƠI NÀO”.
Phật dạy:
-
Tu-Bồ-Ðề! Các vị Ðại Bồ-tát phải giữ tâm thanh-tịnh, chớ nên sanh vọng tâm
trụ chấp nơi sắc-trần, thinh-trần, hương-trần, vị-trần, xúc-trần và pháp-trần.
Tóm lại, Bồ-tát đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả. (Ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm).
LƯỢC
GIẢI
Hai đoạn trên phá cái chấp “Như-Lai có đắc pháp” và “Bồ-tát có làm trang-nghiêm
cõi Phật”. Ðoạn này tóm lại, Bồ-tát phải giữ tâm thanh-tịnh, không nên sanh
vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả.
Tất cả sự vật trong vũ trụ, tuy vô cùng vô tận, nhưng không ngoài 18 giới là 6 căn,
6 trần và 6 thức; căn và trần thuộc về vật chất, còn thức thuộc về tinh-thần.
Phật dạy các vị Bồ-tát, phải giữ tâm thanh-tịnh, không nên sanh vọng tâm dính mắc
(trụ chấp) nơi sắc-trần, thinh-trần, hương-trần, vị-trần, xúc-trần và pháp-trần
v.v…
Tóm lại, chỉ trong một câu, Phật dạy: “Ðừng sanh vọng tâm dính mắc (trụ chấp) một
nơi nào”.
Thuở xưa, Ngài Huệ-Năng vừa nghe phú-ông tụng kinh Kim-Cang Bát-Nhã vừa đến một
câu:
“Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. (Ðừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào)
Ngài liền tỏ ngộ lý Kim-Cang Bát-Nhã !.... Ngài hân-hoan ca ngợi: “Hay quá!
Kinh Kim-Cang Bát-Nhã hay quá!” (Xem quyển “Ðức Lục Tổ Huệ Năng” do Hương-Ðạo xuất
bản)
“Ðừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào”, tức là “đừng sanh vọng tâm chấp ngã,
chấp pháp v.v…” Không chấp ngã, pháp thì phiền-não không sanh. Phiền-não
không sanh thì tâm được thanh-tịnh, không tạo nghiệp sanh tử luân hồi. Ðó
là phương pháp tu của Ðại-thừa Ðốn-giáo, rất giản-dị và mau chóng, để hàng phục
vọng tâm và an trụ chơn-tâm.
Sau khi đại ngộ lý kinh Bát-Nhã, Tổ Huệ-Năng đã minh tâm kiến tánh, nên Ngài có
dạy rằng:
Nguyên văn (dịch âm);
Hà kỳ tự tánh bổn tự thanh-tịnh
Hà kỳ tự tánh bổn bất sanh diệt
Hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc
Hà kỳ tự tánh bổn vô diêu động
Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp.
Dịch nghĩa:
Ai ngờ tâm mình vốn tự thanh-tịnh
Ai ngờ tâm mình vốn không sanh diệt
Ai ngờ tâm mình vốn tự đầy đủ
Ai ngờ tâm mình vốn không diêu động
Ai ngờ tâm mình hay sanh muôn pháp.
Ðức Ngũ-Tổ đến lúc tuổi già, muốn chọn người để truyền Tổ-vị, nên Ngài truyền dạy
trong chúng, mỗi người phải làm một bài kệ, để trình-bày sự tu chứng của mình, nếu
người nào tỏ ngộ được lý Ðạo, Ngài sẽ truyền Tổ-vị, làm Tổ thứ Sáu.
Ngài Thần-Tú là bực Thượng-tọa, tài đức siêu-quần, làm bài kệ rất hay, nhưng vì
chưa tỏ ngộ được lý Kim-Cang Bát-Nhã, còn trụ chấp các tướng, có tu, có chứng v.v…
nên bị Tổ Huệ-Năng quở rằng: “Còn đứng ngoài hàng rào”.
Bài kệ của Ngài Thần-Tú:
Nguyên văn (dịch âm):
Thân thị Bồ-đề thọ
Tâm như minh-cảnh đài
Thời thời thường phất thức
Vật sử nhá trần si.
Dịch nghĩa:
Thân là cây Bồ-đề (có tướng)
Tâm như đài gương sáng (có tướng)
Mỗi giờ thường lau quét (có tu)
Chớ cho dính bụi trần (có chứng).
Tổ Huệ-Năng, đã ngộ được lý Kim-Cang Bát-Nhã, không trụ chấp các tướng, nên được
đức Ngũ-Tổ truyền trao y-bát và cho làm vị Tổ thứ sáu.
Bài kệ của Tổ Huệ-Năng:
Nguyên văn (dịch âm):
Bồ-đề bổn vô thọ
Tâm phi minh-cảnh đài
Bổn lai vô nhứt vật
Hà xứ nhá trần ai.
Dịch nghĩa:
Bồ-đề không phải cây (vô tướng)
Chơn-tâm không phải đài (vô tướng)
Xưa nay không một vật (vô tướng)
Chỗ nào dính bụi trần (vô tướng).
18.
PHẬT PHÁ CÁI CHẤP “THÂN PHẬT CAO LỚN NHƯ NÚI TU-DI”.
Phật hỏi:
-
Tu-Bồ-Ðề! Báo-thân của Phật như núi Tu-di. Vậy Báo-thân của Phật có
cao lớn không?
Ông Tu-Bồ-Ðề
thưa:
-
Bạch Thế-Tôn! Lớn lắm. Nhưng, Phật nói: “Không chấp thân cao lón,
mới thật là cao lớn”.
LƯỢC
GIẢI
Ðoạn này Phật dùng trí-huệ Bát-Nhã, phá trừ cái chấp “Báo-thân Phật cao lớn”.
Từ trước đến nay, đã nhiều lần hỏi và đáp. Vì muốn phá các vọng chấp, để nhập
với “Tánh Bát-Nhã Chơn-không”, cho nên Phật hỏi. Và cũng vì muốn phá các vọng
chấp, để chập với “Tánh Bát-Nhã Chơn-không”, cho nên ông Tu-Bồ-Ðề đáp. Nếu
chúng-sanh chấp có, thì Ngài nói không; chúng-sanh chấp không thì Ngài nói có v.v…
Dù nói có, nói không, nói lớn, nói nhỏ v.v… đều để phá các chấp của chúng-sanh,
đem về “Tánh Bát-Nhã Chơn-không”.
Phật hỏi ông Tu-Bồ-Ðề: “Báo-thân của Phật có cao lớn không?”
Tu-Bồ-Ðề thưa: “Báo-thân của Phật cao lớn lắm”.
Nhưng sợ chúng-sanh chấp “thân Phật cao lớn”, nên ông Tu-Bồ-Ðề liền dẫn lời Phật
nói để phá chấp: “Phật nói không chấp thân cao lớn, mới thật là cao lớn”.
Nghĩa là: Phàm cái gì còn thấy nghe và suy nghĩ được, thì cái đó không phải
là tuyệt đối; phải siêu thoát ra ngoài sự thấy nghe và suy nghĩ, mới là tuyệt đối.
Ðức Lão-Tử nói: “Ðạo mà có thể nói được, thì không phải thật là Ðạo”.
Tóm lại, nếu còn “chấp thân cao lớn”, tất nhiên còn chấp ngã và chấp pháp, thì không
nhập được Kim-Cang Bát-Nhã, nên chưa phải thân cao lớn.
GIẢI
DANH TỪ
Báo-thân: Phật có ba thân:
a.
Pháp thân:
Tức là pháp-tánh
hay chơn-tâm, không có hình tướng.
b.
Báo thân:
Thân do phước
báo tu-hành, trải qua 3 vô số kiếp mới được. Kinh chép: Báo-thân của
Phật lớn bằng núi Tu-di; duy có bực Bồ-tát mới thấy được.
c.
Ứng-thân hay Hóa-thân:
Phật tùy các
loại chúng-sanh mà ứng-hiện hay hóa-hiện ra mỗi thân, để tế-độ.