BÀI THỨ CHÍN
I.
Phật dạy chơn-tâm
phi tất cả tướng.
II.
Phật dạy chơn-tâm
tức tất cả pháp.
III.
Ðến một từng
nữa, là chơn-tâm không thể nói “phi” và “tức”.
IV.
Phật lấy cây
đờn để tỷ-dụ.
V.
Ông Phú-Lâu-Na
hỏi Phật: Chơn-tâm nhơn đâu có vọng.
VI.
Phật dạy:
Ðã là vọng thì không có sở-nhơn, như ông Diễn-Nhã-Ðạt-đa.
VII.
Nếu các vọng-duyên
dứt, tâm cuồng-vọng tiêu, thì chơn-tâm hiện bày.
VIII.
A-Nan nghi:
“Tâm Bồ-đề nhơn-duyên sanh”.
IX.
Phật định-nghĩa
chữ nhơn-duyên , tự-nhiên và bác.
X.
Phật phá chấp
nhơn-duyên để dẫn vào vô công-dụng.
XI.
Phật phá chấp
tự-nhiên, để thành vô hí-luận.
XII.
Phật quở ông
A-Nan học nhiều mà không tu, thì chẳng có lợi-ích gì.
XIII.
So-sánh để
khuyến-khích tu-hành.
BÀI THỨ CHÍN
I. PHẬT DẠY
CHƠN-TÂM PHI TẤT CẢ TƯỚNG.
Phật dạy:
- Chơn-tâm này phi tâm (thức), phi thức,
nước, gió, lửa và phi hư-không.
(Ðoạn này nói: Chơn-tâm phi ngũ-uẩn. Thọ,
tưởng, hành, thức thuộc về tâm; còn đất, nước, gió, lửa thuộc về sắc).
- Nó phi nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý;
phi sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; phi nhãn-thức-giới, cho đến phi ý-thức-giới.
(Ðoạn này nói: Chơn-tâm phi lục-nhập,
thập-nhị-xứ và thập-bát-giới. Nói phi ấm, giới, nhập tức là nói phi cảnh-giới lục-phàm).
- Chơn-tâm phi minh vô-minh và minh vô-minh
tận, cho đến phi lão-tử và phi lão-tử tận.
(Ðoạn này nói: phi 12 nhơn-duyên, cả lưu-chuyển
và hoàn-diệt, cảnh-giới của Duyên-giác).
- Phi khổ, tập, diệt, đạo; phi trí và phi
đắc.
(Ðây là phi tứ đế, cảnh-giới của Thinh-văn).
- Phi bố-thí, trì-giới, tinh-tấn, nhẫn-nhục,
thiền-định và trí-huệ.
(Ðây là nói phi lục-độ, cảnh-giới của
Bồ-tát).
- Cho đến phi Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri
… (mười hiệu), phi Ðại Niết-bàn và phi bốn đức của Niết-bàn: thường, lạc, ngã, tịnh.
(Ðoạn này nói phi cảnh-giới Phật. Từ Thinh-văn,
Duyên-giác, Bồ-tát và Phật gọi là tứ-thánh).
- Tóm lại, chơn-tâm phi tất cả các pháp
thế-gian (6 cõi phàm) và xuất-thế-gian (4 quả thánh) vậy.
LƯỢC GIẢI
Ðã là chơn-tâm thì không còn vọng. Vì
không còn vọng nên không có đối-đãi: ngộ mê, thánh phàm, chúng-sanh và Phật, hữu-vi
hay vô-vi v.v… vì nó tuyệt tánh, ly tướng.
II. PHẬT DẠY
CHƠN-TÂM TỨC TẤT CẢ PHÁP.
Phật dạy:
- Chơn-tâm này, cũng tức tất cả pháp, tức
là tâm, tức là đất, nước, gió, lửa và hư-không; tức là nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân,
ý; tức là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; tức là nhãn-thức-giới cho đến ý-thức-giới;
tức Tứ-đế, tức Thập-nhị nhân-duyên, tức là Lục-độ, tức là Phật và bốn đức Niết-bàn.
Nói tóm lại, chơn-tâm tức là tất cả pháp thế-gian và xuất-thế-gian.
LƯỢC GIẢI
Tâm đã sanh ra tất cả pháp, thì tâm là
tất cả pháp. Cũng như bột đã làm ra các thứ bánh, thì bột đó tức là bánh.
III. ÐẾN MỘT
TỪNG NỮA, LÀ CHƠN-TÂM KHÔNG THỂ NÓI “PHI” VÀ “TỨC”.
- Phú-Lâu-Na, cái chơn-tâm này lại rời
tất cả “tức” và “phi”, mà cũng là “tức” và “phi tức”.
- Chơn-tâm như thế, thì từ kẻ phàm-phu
cho đến các vị thánh: Thinh-văn, Duyên-giác, làm sao lấy tâm trí suy-nghĩ cho đến
đạo vô-thượng bồ-đề của Như-Lai, hay dùng lời nói luận-bàn của thế-gian mà ngộ-nhập
chỗ tri-kiến của Phật cho được?
LƯỢC GIẢI
Ðây là chỗ tuyệt-đối, không thể nói-năng,
suy-nghĩ và kêu gọi là gì được. Túng cùng chỉ gọi Chơn-tâm thôi. Bởi thế nên Phật
đóng cửa thất tại nước Ma-Kiệt; ông Duy-Ma ngậm miệng ở thành Tỳ-Gia, cũng vì lý
đạo quá cao-siêu và nhiệm-mầu, nên không thể nói ra được vậy.
IV. PHẬT LẤY
CÂY ÐỜN ÐỂ TỶ-DỤ.
- Tỷ-dụ như cây đờn cầm hay đờn tỳ-bà v.v…
tuy sẵn có tiếng hay, nhưng phải nhờ ngón tay hay của người biết khảy (nhạc-sĩ)
mới có thể phát ra tiếng hay được.
LƯỢC GIẢI
Thí dụ này rõ-ràng và thật-tế lắm. Người
đờn hay khảy ra tiếng hay, người đàn vừa khảy ra tiếng vừa, người đờn dở khảy ra
tiếng dở, song đều có tiếng cả. Dụ cho chơn-tâm của chúng ta tùy duyên biến-hiện
các pháp; nếu khéo dùng thì hiện ra Phật, còn vừa vừa thì thành Bồ-tát, Thinh-văn,
vụng lắm thì thành tam-đồ lục-đạo, đều có biến-hiện cả.
- Ta cùng với các ông cũng đồng một bản-thể
chơn-tâm thanh-tịnh này và viên-mãn khắp giáp tất cả. Song ta làm việc gì và lúc
nào cũng đều chơn cả. Còn các ông tâm vừa móng lên, thì phiền-não trần-lao đã khởi
trước.
- Bởi các ông không siêng-năng cầu đạo
vô-thượng, chỉ ưa mến quả Tiểu-thừa, mới vừa chứng được chút ít lại cho là đầy-đủ.
V. ÔNG PHÚ-LÂU-NA
HỎI PHẬT: CHƠN-TÂM NHƠN ÐÂU CÓ VỌNG.
Ông Phú-Lâu-Na thưa:
- Bạch Thế-Tôn, con cùng với Phật đã đồng
một chơn-tâm viên-mãn không khác. Nhưng con bị vọng-tưởng từ vô-thỉ, nên nhiều kiếp
phải chịu sanh-tử luân-hồi, nay tuy chứng đặng quả Thánh, mà chưa cứu-cánh (còn
ở về Tiểu-thừa).
- Còn đức Thế-Tôn thì tất cả các vọng
đã hoàn-toàn diệt, Ngài đã chứng chơn-tâm thường-trụ rồi, được tự-tại giải-thoát.
Vậy con xin kính hỏi đức Thế-Tôn: Tất cả chúng-sanh vì sao có vọng, tự che lấy chơn-tâm
mà phải chịu trầm-luân?
VI. PHẬT DẠY:
ÐÃ LÀ VỌNG THÌ KHÔNG CÓ SỞ-NHƠN, NHƯ ÔNG DIỄN-NHÃ-ÐẠT-ÐA.
Phật dạy:
- Này Phú-Lâu-Na,
ông tuy trừ nghi, mà các mê-lầm chưa hết. Tôi nay dùng việc thật-tế và hiện-tiền
trong thế-gian để chỉ dạy ông: Vừa rồi đây, ông có nghe câu chuyện chàng Diễn-nhã-đạt-đa
tại thành Thất-la không? Một buổi sáng nọ, chàng lấy gương soi mặt, thấy cái đầu
trong gương (bóng) có mặt-mày đáng thương. Chàng trở lại giận trách “cái đầu thiệt
của mình đây sao không thấy được mặt-mày của mình; hay là ma quỉ?” Rồi bỗng nhiên
chàng nổi cuồng vùng chạy… Theo ý ông, người này nhơn cái gì mà bỗng-nhiên nổi cuồng
vụt chạy?
Ông Phú-Lâu-Na
thưa:
- Người ấy
tự tâm họ cuồng, chớ không có nhơn cái chi cả.
Phật dạy:
- Cũng vậy
đó, ông Phú-Lâu-Na. Ðã nói là “vọng” thì đâu có sở-nhơn, còn có sở-nhơn thì không
phải là vọng. Các vọng-tưởng tự nó nhơn nhau liên-tiếp phát sanh; từ đời này đã
mê rồi chất-chứa thêm cái mê, cho đến nhiều kiếp. Ta đã nhiều lần chỉ dạy, mà các
ông hãy còn chưa ngộ trở lại.
- Này Phú-Lâu-Na,
cái “mê” như vậy đó, nhơn mê tự có. Nếu người biết được cái “mê” ấy không nguyên-nhân,
thì cái “mê vọng” đó không còn gá nương vào đâu nữa. Lúc bấy giờ dầu muốn cho nó
sanh còn không thể được, huống chi muốn diệt.
- Các ông nên
biết: người đặng đạo Bồ-đề rồi (ngộ chơn-tâm), cũng như người thức giấc mộng, mà
muốn nói lại việc chiêm-bao; mặc dầu trong tâm nhớ rõ-ràng, nhưng không làm sao
chỉ các vật trong chiêm-bao ra được, vì nó không thật có, vả lại nó cũng không có
nguyên-nhân nữa. Cũng như chàng Diễn-nhã-đạt-đa, tự sợ cái đầu của mình, rồi nổi
cuồng vụt chạy, chớ không có sở-nhơn gì cả.
- Nếu cái “cuồng”
kia thoạt-nhiên hết, thì cái “đầu” vẫn y-nguyên. Dù cho khi chưa hết cuồng thì cái
đầu ấy cũng không mất. Này Phú-Lâu-Na, các “mê-vọng” như vậy đó, chớ có nhơn cái
gì đâu!
LƯỢC GIẢI
Cái đầu dụ
cho “chơn-tâm”. Tự nổi cuồng là dụ cho các “vọng-tưởng” tự sanh. Hết cuồng rồi thì
cái đầu vẫn y-nguyên, dầu đương cuồng, cái đầu cũng không mất, là dụ cho ngộ rồi
thì chơn-tâm tự hiện, dầu chưa ngộ, chơn-tâm cũng không mất.
VII. NẾU CÁC
VỌNG-DUYÊN DỨT, TÂM CUỒNG-VỌNG TIÊU, THÌ CHƠN-TÂM HIỆN BÀY.
- Này Phú-Lâu-Na,
các ông khi đối với trần-cảnh (thế-giới, chúng-sanh, nghiệp-quả) chỉ đừng có khởi
vọng-niệm phân-biệt, thì tham, sân, si, (ba duyên) không khởi. Ba duyên không khởi,
thời ba nhơn sát, đạo, dâm chẳng sanh. Lúc bấy giờ anh khùng Diễn-nhã-đạt-đa (mê)
ở trong tâm các ông tự hết, mà hết tức là Bồ-đề (sáng-suốt). Khi ấy chơn-tâm của
ông thanh-tịnh sáng-suốt tự hiện bày, khắp cả pháp-giới, không cần phải cực-nhọc
khó-khăn tu chứng, hay xin cầu nơi ai cả.
LƯỢC GIẢI
Bởi đối cảnh
khởi tâm phân-biệt, nên sanh ra tham, sân, si. Vì tham, sân, si mới có sát, đạo,
dâm… Do sát, đạo, dâm nên phải chịu sanh-tử luân-hồi.
Tỷ-dụ như
người khi đối với nữ-sắc v.v… chỉ thấy qua, không khởi vọng-niệm phân-biệt thì chẳng
có hại chi. Ðến lúc khởi tâm phân-biệt đây là xấu, thì tâm ghét giận nổi lên. Còn
phân-biệt kia là đẹp, thì tâm tham muốn sanh ra. Tham, sân đã sanh, thì si cũng
theo đó mà khởi.
Còn khi đối
cảnh, mà tâm không phân-biệt, thời vọng-niệm chẳng sanh, vọng-niệm chẳng sanh, thì
chơn-tâm tự hiện.
Thật là một
pháp tu trực-chỉ mau thành Phật nhứt, mà cũng là khó nhứt. Chúng ta suốt đời chỉ
tu theo bốn chữ Phật đã dạy: “Bất tùy phân-biệt” (đối cảnh không khởi phân-biệt)
cũng chưa chắc đã tu xong.
- Tỷ-dụ như
kẻ cùng-tử, trong túi áo có sẵn hột châu như-ý, nhưng không hay biết, nên chịu nghèo
hèn vất-vả, phải đi làm thuê mướn ở các phương xa, kiếm ăn qua ngày tháng, song
hột châu ấy không mất. Ðến khi gặp người tri-thức (quen) chỉ cho biết: “Anh đã sẵn
có hột châu vô-giá trong túi áo kia”. Lúc bấy giờ anh muốn gì được nấy, giàu có
vô cùng. Chừng ấy anh mới hối-ngộ rằng: hột thần-châu này chính mình sẵn có, không
phải do nơi người mà được.
LƯỢC GIẢI
Lời tỷ-dụ
này rất hay. Phật chỉ rõ chúng-sanh đều sẵn có Phật-tánh (chơn-tâm). Nhưng vì không
ngộ được, nên phải nhiều kiếp làm chúng-sanh khổ-sở, mà Phật-tánh thì vẫn không
mất. Ðến khi ngộ được chơn-tâm, chứng thành quả Phật, phước trí đầy đủ rồi mới biết
rằng: chơn-tâm này chính mình sẵn có, không phải do nơi nguời mà được.
VIII. A-NAN
NGHI: “TÂM BỒ-ÐỀ DO NHƠN-DUYÊN SANH”.
Khi đó A-Nan
đứng dậy lạy Phật, chắp tay bạch rằng:
- Ðức Thế-Tôn
nói: “Ba duyên tham, sân, si dứt rồi, thời ba nhơn sát, đạo, dâm không sanh. Lúc
bấy giờ anh khùng Diễn-nhã-đạt-đa trong tâm ông tự hết, mà hết tức là Bồ-đề, không
phải do nơi người mà đặng”.
- Bạch Thế-Tôn,
như thế thì tâm Bồ-đề rõ-ràng là do nhơn-duyên sanh rồi. Tại sao đức Như-Lai lại
bác thuyết nhơn-duyên sanh?
- Không những
riêng chúng con là hàng Thinh-văn tuổi trẻ hữu-học, do nhơn-duyên mà tâm được khai
ngộ; chính như trong hội này, những vị đã đặng vô-lậu, như ông Ðại Mục-kiền-liên,
ông Xá-lợi-phất và ông Tu-bồ-đề từ dòng Phạm-chí ngoại-đạo, cũng do nghe Phật nói
nhân-duyên mà tâm được khai ngộ.
- Nay Phật
nói: “Tâm Bồ-đề không tư nơi nhơn-duyên sanh”. Như thế thì chúng ngoại-đạo Câu-xá-ly
kia nói về thuyết “tự-nhiên” cũng thành đúng lý hay sao? Xin Phật duỗi lòng đại-bi,
vạch mở chỗ mê-mờ cho chúng con.
LƯỢC GIẢI
Ông A-Nan
trước đã nghi nhân-duyên và tự-nhiên, đều bị Phật phá rồi, nay ông lại còn nghi
nhân-duyên và tự-nhiên nữa. Bởi vì lưới nghi chồng-chập nhiều đời, vả lại hàng Thinh-văn
pháp-chấp khó trừ. Cũng như cây chuối, lật được bẹ này, lại bày ra bẹ khác. Lột
cho hết bẹ thì lõm chuối mới bày. Phá nghi cho hết, thì “chơn-tâm” mới hiện.
IX. PHẬT ÐỊNH-NGHĨA
CHỮ NHƠN-DUYÊN, TỰ-NHIÊN VÀ BÁC.
Phật dạy rằng:
- Này A-Nan,
như chàng Diễn-nhã-đạt-đa kia, vì nhân-duyên soi gương, cho nên chàng mới sanh ra
cuồng. Ðến khi hết cuồng thì tánh không cuồng (tỉnh) tự-nhiên sanh ra; có phải cái
lý nhân-duyên và tự-nhiên cùng tột như thế chăng?
- Này A-Nan,
chàng Diễn-nhã-đạt-đa kia, nếu cái đầu của chàng ta đã là tự-nhiên, thì lúc nào
cũng vẫn tự-nhiên, vậy do nhân-duyên gì nổi cuồng sợ bỏ chạy?
- Nếu cái đầu
là tự-nhiên, vì nhơn-duyên soi gương cho nên mới cuồng, vậy cái đầu cũng vẫn tự-nhiên,
sao chẳng vì nhân-duyên soi gương mà mất đi. Phải biết: Cái đầu vẫn không biến-đổi
hay mất đi, còn “cuồng sợ” tự nó vọng-sanh. Vậy thì cần gì phải có nhân-duyên soi
gương mới sanh ra cuồng?
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này ý
nói: Nếu nói “chơn-tâm tự-nhiên”, thì lúc nào nó cũng vẫn tự-nhiên, vậy do nhân-duyên
gì mà nổi vọng. Nếu nói “do nhân-duyên nên nổi vọng” sao chẳng do nhân-duyên mà
chơn-tâm kia mất. Vậy thì biết, chơn-tâm không biến-đổi, cái “cuồng vọng” tự nó
vọng sanh, không cần gì phải có nhân-duyên.
- Còn nói “cái
cuồng đó tự-nhiên sẵn có”, vậy thì khi chưa cuồng nó núp ở chỗ nào?
- Cái đầu đã
tự-nhiên không có cuồng-vọng, vậy vì sao nổi cuồng vụt chạy?
- Nếu như người
ngộ được “cái đầu mình sẵn có”, biết được cái “cuồng” tự nó vọng-sanh, thì thuyết
nhân-duyên và tự-nhiên đều là nói chơi cả.
X. PHẬT PHÁ
CHẤP NHƠN-DUYÊN ÐỂ DẪN VÀO VÔ CÔNG-DỤNG.
- Thế nên ta
nói: “Ba duyên: tham, sân, si đoạn hết, tức là tâm Bồ-đề”. Nếu cái “vọng-tâm sanh-diệt
kia diệt, mà tâm Bồ-đề sanh”, như thế cũng còn ở trong vòng sanh-diệt. Phải diệt
và sanh đều hết, mới được vô công-dụng đạo (chỗ cứu cánh).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật
phá chấp nhân-duyên để dẫn nhập đạo vô công-dụng.
XI. PHẬT PHÁ
CHẤP TỰ-NHIÊN, ÐỂ THÀNH VÔ HÍ-LUẬN.
- Nếu ông chấp
“vọng-tâm sanh-diệt kia diệt rồi, thì tâm Bồ-đề tự-nhiên sanh”; như thế cũng còn
ở trong vòng sanh-diệt, chưa phải thật là tự-nhiên. Phải không còn sanh và diệt,
mới thật là tự-nhiên.
- Ông nên hiểu
thêm: không phải tự-nhiên sanh, không phải nhân-duyên hòa-hiệp khởi; ly (rời) cả
tự-nhiên và nhân-duyên hòa-hiệp, mà cái “ly” đó cũng không còn nữa, như thế mới
phải là chỗ rốt-ráo (vô hí luận).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này là
Phật chỉ đến chỗ cứu-cánh tuyệt-đối, nếu còn nói-năng phân-biệt, thì chưa phải là
tuyệt-đối.
XII. PHẬT
QUỞ ÔNG A-NAN HỌC NHIỀU MÀ KHÔNG TU, THÌ CHẲNG CÓ LỢI-ÍCH GÌ.
- A-Nan! Ông
đối với quả Bồ-đề Niết-bàn của Phật hãy còn cách xa lắm! Nếu ông không siêng-năng,
trải qua nhiều kiếp chịu cực-nhọc tu-hành, thì dầu cho ông có nhớ hết nghĩa-lý nhiệm-mầu
trong mười hai bộ kinh của mười phương các đức Phật, nhiều như số cát sông Hằng,
cũng chỉ giúp thêm cho ông việc nói giỏi mà thôi, chớ không lợi chi cho ông cả.
- Ông nay luận-bàn
về thuyết nhân-duyên và tự-nhiên rất là thông-suốt. Người đời khen ông là bực học
rộng nghe nhiều. Nếu trong nhiều kiếp ông chỉ chứa-chất cái học suông này mà không
tu, thì không bao giờ khỏi được cái nạn Ma-đăng-dà kia vậy.
- Nếu cái học
và nghe suông của ông đó có lợi, thì cần gì phải nhớ đến thần-chú Lăng-Nghiêm của
ta, để làm cho nàng Ma-đăng-dà kia nguồn tình khô cạn, lửa dục tiêu-tan, lại tinh-tấn
tu-hành, trong đạo-pháp của ta, nàng chứng được quả thánh thứ ba (A-na-hàm). Khi
đó ông mới được giải-thoát.
XIII. SO-SÁNH
ÐỂ KHUYẾN-KHÍCH TU-HÀNH.
- A-Nan! Ông
tuy nhiều kiếp ghi nhớ các nghĩa-lý nhiệm-mầu của Như-Lai, nhưng không bằng một
ngày tu-tập nghiệp vô-lậu, xa-lìa hai cái khổ thương ghét (tham, sân) ở thế-gian.
- Bằng chứng
rõ-ràng, như nàng Ma-đăng-dà nguyên trước kia là kẻ dâm-nữ, do nhờ thần-chú của
ta, mà nguồn tình khô cạn, lửa dục tiêu-tan, lại xuất-gia tu-hành làm Tỳ-kheo-ni.
- Còn bà Gia-du-đà-la
là mẹ của La-hầu-la, vì biết được nhân đời trước, do tham-ái mà nhiều đời phải chịu
khổ, nên một niệm tu theo nghiệp lành vô-lậu, mà được ra khởi tình ái-ân triền-phược
và đặng thọ-ký.
- Kẻ phụ-thân
tu-hành còn được như thế, huống chi các ông là nam-tử, đã học rộng nghe nhiều, mà
trở lại chấp chỗ thấy, nghe suông, chẳng biết tiến-tu, sao tự khinh mình đến thế!
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật
quở-trách rất là thống-thiết! Nếu chỉ học nhiều mà không tu, thì chẳng có lợi-ích
gì. Chúng ta đọc đoạn này chớ nên nghĩ rằng: “Phật chỉ quở một mình ông A-Nan”,
mà chính là Ngài quở-trách chung tất cả chúng ta vậy.
LƯU Ý:
Từ trước
đến đây, Phật nói về phần lý, từ đây về sau, Phật mới chỉ về đường-lối tu-hành.