Nhập Email của Bạn để nhận Tin Sinh Hoạt từ Tu Viện Kim Cang

TÌM KIẾM  

Tìm Theo

TRANG NHẤT > PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Cập nhật ngày 07/10/2008 (GMT+7)

Diệt Ðế

DIỆT - ÐẾ (NIRODHA DUKKHA) 

A.    MỞ-ÐỀ: 

SAU KHI NÓI VỀ PHƯƠNG-DIỆN ÐAU KHỔ XONG, ÐỨC PHẬT NÓI VỀ PHƯƠNG-DIỆN AN-LẠC. 

            Sau khi giải bày đủ hiện-tượng nhân-quả về phần nhiễm, về phương-diện đau khổ xong, đức Phật liền thuyết minh các hiện-tượng nhân-quả về phần tịnh, về phương-diện an-lạc.  Nói một cách khác, sau khi dạy xong Khổ-đế và Tập-đế, đức Phật liền dạy đến Diệt-đế và Ðạo-đế.  Có người chỉ thấy hai phần đầu của Tứ-đế là Khổ và Tập, nên đã tưởng đạo Phật là đạo yếm-thế bi-quan.  Họ cho rằng Phật-giáo gieo vào lòng người sự chán đời và tuyệt-vọng.  Họ đã lầm lớn!  Kẻ bi-quan, chán đời là kẻ thấy cuộc đời xấu-xa, đau khổ, mà không tìm phương-pháp để thoát ra cảnh ấy, mà chỉ buông xuôi tay ngồi nhìn và khóc than, sầu khổ.  Ðạo Phật không làm như thế.  Ðạo Phật trình bày cho mọi người thấy cái hiện-tại đen tối của mình, cái hoàn-cảnh xấu-xa, có nhiều sự khuyết-điểm, để cải đổi nó, kiến tạo lại một cuộc sống đẹp-đẽ, an-vui hơn.  Một giáo-lý như thế, không thể gọi là yếm-thế, bi-quan được mà chính là yêu đời, lạc-quan, vì còn tin-tưởng ở khả-năng kiến-tạo của mình, ở tương-lai tươi đẹp của mình và chúng-sinh.  Cảnh-giới mà đức Phật trình bày cho chúng ta thấy ở đây là một cảnh-giới hoàn-toàn trái ngược với cảnh-giới tối-tăm, sầu khổ, đớn đau mà chúng ta đang sống.  Cảnh-giới ấy là một cảnh-giới huy-hoàng, an-lạc, mà chỉ những người đã diệt dục, hết mê mới đạt được. 

            Cảnh-giới ấy, chúng ta sẽ nghe đức Phật trình-bày trong phần Diệt-đế sau đây. 

B.     CHÁNH-ÐỀ: 

I.                   ÐỊNH – NGHĨA 

Sao gọi là Diệt-đế ? 

            Diệt là tiêu diệt, trừ diệt.  Diệt ở đây tức là diệt dục-vọng, mê-mờ, phiền-não.  Ðế là lý lẽ chắc thật, đúng-đắn do trí-tuệ sáng-suốt soi thấu và thuyết-minh.  Diệt-đế chữ Pali gọi là “Nirodha dukkha” tức là sự thật đúng-đắn, mà đức Phật đã thuyết-minh về hoàn-cảnh tốt đẹp mà một người có thể đạt được khi đã diệt hết mọi phiền-não, mê-mờ.  Phiền-não, mê-mờ là nguyên-nhân của đau-khổ, như chúng ta đã nghe Phật thuyết trong phần Tập-đế. 

            Khổ là quả, mà Tập là nhân.  Diệt khổ mà chỉ tiêu diệt cái quả thì không bao giờ hết khổ được.  Muốn diệt khổ tận gốc, thì phải diệt cái nhân của nó, như muốn nhổ đi cái thân cây, thì phải bới cho hết cái rễ của nó ăn sâu trong lòng đất. 

            Trong kinh Nhân-Quả, Phật dạy rằng: “Các ông phải biết, vì tập nhân phiền-não mới có quả khổ sanh-tử, vậy các ông phải dứt trừ phiền-não tập nhân.  Khi đã dứt trừ rồi, lại thường thường phải nắm chặt chỗ dứt trừ cho chắc chắn, không khi nào dứt bỏ.  Ðến khi chứng được đạo quả Niết-bàn, thì tất nhiên tập nhân phiền-não phải diệt hết, mà khổ quả luân-hồi cũng không còn”. 

            Thế cho biết, muốn giải-thoát, tất phải tu-hành.  Mà tu-hành là gì ? 

            - Là tận diệt trừ tập-nhân phiền-não vậy!  Diệt trừ được phần nào tập-nhân là đã bước đến gần giải-thoát ấy, như một cái phao, càng bớt dần được chừng nào vật nặng dìm nó xuống, thì nó lại càng nổi dần lên mặt nước chừng ấy vậy.

II.               LỚP THỨ ÐOẠN HOẶC 

Như chúng ta đã biết trong bài Tập-đế, tập nhân phiền-não rất phức-tạp, có thứ mong-manh, cạn-cợt, có thứ in sâu vào tâm thức từ lâu đời lâu kiếp rất khó dứt trừ.  Do tính chát cạn sâu của các thứ phiền-não ấy, nên sự đoạn trừ cũng phải tuần tự, theo thứ lớp. 

Có hai thứ lớp đoạn hoặc chính là: 

1.  Kiến đạo sở đoạn hoặc. 

            Những mê-lầm nầy, khi thấy chánh-đạo mới đoạn được.  Ðây là sự dứt trừ nhưng sai lầm về phần lý-trí.  Những phiền-não nầy thuộc loại cạn-cợt gây ra bởi sự gần gũi tà-sư, sự tuyên-truyền tà vạy của sách vở, cùng những người tri kiến không chân-chánh.  Nếu gặp được Minh-sư, thấy được chân-lý, thì liền đoạn hết.  Vì thế, sự dứt trừ những phiền-não này, gọi là “Kiến đạo sở đoạn hoặc”. 

            2.  Tu đạo sở đoạn hoặc. 

            Những mê-lầm nầy, khi tu đạo mới đoạn được.  Ðây là sự đoạn trừ những phiền-não sâu kín, đã đâm sâu gốc rễ trong tâm thức, biến thành thói quen, như sự chấp ngã, sự say đắm nhục dục, tham, giận, kiêu-căn v.v…  Ðối với những thứ phiền-não này, phải cần nhiều công phu tu-hành dẻo-dai, chắc-chắn mới có thể đoạn trừ được.  Do đó, mới gọi là “Tu đạo sở đoạn hoặc”. 

III.            CÁC TẦNG BẬT TU CHỨNG 

Ðoạn trên là nói tổng-quát về hai loại đoạn diệt phiền-não cho dễ phân-biệt và dễ hiểu.  Ðến đây, để có một ý niệm rõ-ràng về các tầng bậc tu chứng mà một hành-giả cần phải trải qua, chúng ta hãy tuần tự điểm qua các quả-vị từ thấp đến cao. 

1.  Tứ-gia-hạnh. 

            Muốn đoạn trừ kiến-hoặc, trước tiên người tu-hành phải rời xa các tà-thuyết, xây tâm ý, tư-tưởng dần vào chân-lý: vô-thường, vô-ngã, bất-tịnh, tứ-đế, để nhận chân được các tánh cách vô-thường, vô-ngã, bất-tịnh, không thật v.v… của cuộc đời.  Nhờ sự gần gủi với chân-lý như thế, những điều thấy biết sai lầm điên-đảo sẽ tan hết và 88 món kiến-hoặc cũng không còn.  Tuy nhiên, không phải chỉ trong một lúc mà đoạn được tất cả kiến-hoặc; trái lại, phải cần nhiều thời giờ, công phu tu tập.  Từ những tư-tưởng, thành-kiến mê-lầm của phàm-phu mà đến Thánh-trí để dự vào dòng thánh-giả, người tu-hành phải tu bốn gia-hạnh sau đây: 

a)     Noãn vị:

Noãn là hơi nóng; vị là địa-vị.  Người xưa, khi muốn lấy lửa, họ dùng hai thanh củi cọ xát vào nhau; trước khi lửa sắp bật lên, phải qua giai-đoạn phát ra hơi nóng.  Người tu-hành muốn có lửa trí-tuệ, cũng phải trải qua giai-đoạn hơi nóng.  Tất nhiên hơi nóng trí-tuệ chưa đốt cháy được phiền-não, nhưng không thể không qua giai-đoạn này được.  Ðó là giai-đoạn “Noãn vị”. 

b)     Ðảnh vị: 

Ðảnh là chóp cao.  Qua khỏi giai-đoạn Noãn vị, người tu-hành tiếp-tục tiến bước và lên được trên chóp đỉnh núi mê-lầm.  Ðứng ở địa-vị này, toàn thân hành-giả được tắm trong khoảng không gian rộng-rãi vô biên, nhưng chân chưa rời khỏi chóp núi mê-lầm. 

c)     Nhẫn vị: 

Nhẫn là nhẫn-nhịn, chịu đựng.  Người biết nhịn, luôn luôn yên-lặng, sáng-suốt trước sự khuấy phá của đối phương.  Người tu-hành lên đến bậc này, trí giác-ngộ đã gần sáng tỏ, thân tâm vẫn giữ được mực yên-lặng trong sáng, mặc dù các pháp có lăng-xăng và ẩn hiện. 

d)     Thế đệ nhất vị:           

Bậc này cao quý nhất trong đời.  Tu đến bậc này là một công-phu rất to-tát, gần giải-thoát ra ngoài vòng Dục-giới, như con diều giấy bay liệng giữa không trung, tự-do qua lại, không còn bị cái gì làm ngăn-ngại, ngoài sợi dây gai nhỏ.  Nếu bứt sợi gai kia là diều bay luôn.  Cũng như thế, người tu-hành phá hết phần kiến-hoặc nhỏ nhứt sau cùng là được giải-thoát luôn. 

Tóm lại, tu-hành thường xuyên bốn món gia-hạnh này, tức là phá được cái lầm về tri-kiến hay kiến-hoặc, cái lầm của Phi-phi-tưởng mà chứng đặng quả Tu-đà-hoàn là quả vị đầu tiên trong Thanh-văn thừa.           

2.      Tu-đà-hoàn. 

Tàu dịch là Dự-lưu quả (dự vào vòng thánh).  Ở quả-vị này, ý-thức đã sáng-suốt, không còn bị mê-lầm nữa, song thần-thức còn chấp ngã, nên phải trở lại trong cõi dục, nhiều nhất là bảy phen sanh-tử nữa, mới gội sạch các kiết-sử phiền-não thâm kín, nằm nép trong tâm thức, và chứng quả A-la-hán. 

3.      Tư-đà-hàm. 

Tàu dịch là Nhất-lai, nghĩa là còn một phen sanh lại cõi Dục để tu-hành và dứt cho sạch phần mê-lầm ở nơi cõi Dục, mới tiến đến bực A-la-hán.  Trên kia, quả Tu-đà-hoàn chỉ là kết-quả của công phu tu-hành đoạn được kiến-hoặc, chứ chưa đã động đến tư-hoặc.  Sau khi chứng quả thánh đầu tiên rồi, phải tu nữa để đoạn trừ tư-hoặc, mới chứng được bậc này.  Tuy nhiên, ở cõi dục có chín phẩm tư-hoặc, mà vị này chỉ mới có 6 phẩm, còn ba phẩm nữa chưa đoạn.  Nghĩa là mới đoạn sáu phẩm thô-thiển bên ngoài, còn ba phẩm sâu kín bên trong chưa đoạn.  Vì thế, phải trở lại một phen để đoạn cho hết ba phần sau, mới bước lên thánh-quả thứ ba là A-na-hàm được. 

4.      A-na-hàm. 

Tàu dịch là Bất-lai (nghĩa là không còn trở lại cõi Dục nữa).  Khi còn bị mê-lầm của cõi Dục lôi kéo, mới sanh vào cõi Dục.  Ðến địa-vị A-na-hàm này, những mê-lầm ấy không còn nữa, nên không bị tái sanh ở đấy nữa, trừ trường-hợp phát nguyện trở lại cõi này để độ sanh.  Vị này ở cõi trời Ngũ-tịnh-cư thuộc Sắc-giới, cũng gọi là Ngũ-bất-hoàn-thiên hay Ngũ-na-hàm.  Vị này đã cách xa chúng ta như trời với vực, đã thoát ra ngoài cõi Dục.  Tuy thế, họ vẫn còn mang trong mình những mê-lầm vi-tế cu-sanh của hai cõi Sắc và Vô-sắc.  Vì vậy, ở Ngũ-tịnh-cư thiên, họ phải tu luyện để dứt cho hết vi-tế hoặc, mới bước lên thánh quả A-la-hán (Tư-hoặc gồm có 9 phẩm.  Tư-đà-hàm quả đoạn sáu, A-na-hàm quả đoạn thêm ba, đến A-la-hán quả là đoạn hết). 

5.      A-la-hán. 

Ðây là quả-vị cao nhất, trong Thanh-văn thừa.  Tàu dịch có ba nghĩa: 

a)       Ưng-cúng:  Vị này có phước-đức hoàn-toàn, trí-huệ hơn cả, đáng làm nơi phước-điền cho chúng-sinh cúng dường. 

b)      Phá-ác:  Vị này đã phá tan những phiền-não tội-ác, không còn bị chúng khuấy phá sai sử trói buộc nữa. 

c)       Vô-sanh:  Vị này không còn bị xoay vần trong sanh-tử luân-hồi nữa, vì đã phá trừ được phiền-não là yếu-tố của sanh-tử luân-hồi. 

Trong ba nghĩa này, Vô-sanh là nghĩa quan-trọng hơn hết, nên đã được nêu lên trong chữ A-la-hán.  Vị này không những đã phá hết mê-hoặc, nông-cạn, mà chính ngay chủng-tử mê-lầm thầm kín cũng đã dứt sạch.  Cho đến chủng-tử chấp ngã là nguồn gốc phiền-não, nguồn gốc luân-hồi, cũng bị dẹp lại một bên, không còn bóng-dáng ra vào trong A-lại-gia thức nữa. 

Tánh cách của lòng ngã-chấp là khiến chúng-sinh luôn luôn cố-chấp bản-thân nhỏ hẹp, tạo thành ranh giới giữa mình và người, mình và sự vật, để rồi gây nên vô-lượng tội-nghiệp và chịu vô-lượng khổ báo.  Một tánh-cách nguy hại của lòng ngã chấp nữa là thường làm cho chúng-sinh không tỏ-ngộ, không thể-nhập được cái tánh “đồng nhất, không mất” của vạn sự vạn vật.  Do đó, chúng-sinh phải chịu lắm nỗi thăng trầm với xác thân bé nhỏ của mình. 

Vị A-la-hán, do sự cố công bền chí, đã diệt được lòng chấp ngã ấy, nên không bị sống chết khổ đau, lo buồn sợ hãi chi-phối.  Như đồ-đệ của ả Phù-dung, một khi đã bỏ được bệnh ghiền thì không còn ra vào nơi tiệm hút làm bạn với bàn đèn ống khói nữa.  A-la-hán là vị đã đoạn được cái sai lầm của cõi trời Sắc-cứu-cánh, hay cái lầm của trời Phi-phi-tưởng, nên không còn vương vấn với các cõi trời ấy nữa. 

Song quả A-la-hán cũng chia làm hai bực, tùy theo căn-cơ lanh-lợi hoặc chậm lụt của các vị ấy: 

a)      Bất-hồi tâm độn A-la-hán là vị A-la-hán trầm không trệ tịch, tự thỏa chí vào địa-vị đã chứng, chứ không phát tâm xoay về Ðại-thừa. 

b)      Hồi-tâm đại A-la-hán là vị A-la-hán lợi căn lợi trí, phát tâm xoay về Ðại-thừa rộng lớn, chứ không tự mãn ở địa-vị đã chứng. 

IV.             GIÁ-TRỊ (DIỆU DỤNG) CỦA 4 CÕI THÁNH 

Bốn quả thánh của Thanh-văn trên này, đều là những kết-quả giải-thoát hiển nhiên của công phu tu tập.  Không cứ căn-cơ nào, đều có thể ở ngay trong cảnh-giới của mình (kinh gọi là tự địa, tự giới), mà tu tập để đạt đến bốn quả-vị ấy.  Hễ đoạn trừ mê-lầm được chừng nào thì chứng quả đến chừng ấy, chứ không phải chờ sanh qua thế-giới khác mới chứng quả kia đâu. 

Khi chứng đến quả Tu-đà-hoàn thì gọi là “Kiến-đạo sở đoạn”.  Ở đây, ý-thức đã tương-ưng với Huệ tâm-sở, sáng-suốt, trực nhận đạo-lý một cách rõ-ràng.  Còn các vị sau thuộc về “Tu đạo sở đoạn”, nghĩa là sau khi đã gội rửa các chủng-tử mê-lầm (tư-hoặc) của A-lại-gia thức mới chứng được.  Do sự dứt trừ phiền não sâu hay cạn đó, mà diệu-dụng của mỗi quả-vị khác nhau. 

Ở địa-vị “Kiến đạo sở đoạn” là đã thành-tựu được năm phép thần-thông (công dụng tự-tại không bị chướng ngại): 

a)       Thiên-nhãn- thông:  Nhãn lực soi thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong thế-giới bao la hiện-tại. 

b)      Thiên-nhĩ-thông:  Nhĩ lực nghe khắp mọi nơi, đủ các tiếng tăm đồng loại và dị loại. 

c)       Tha-tâm-thông:  Tâm lực biết được tâm niệm, sở cầu của kẻ khác.

d)      Túc-mạng-thông:  Trí lực hay biết các kiếp trước của mình. 

e)       Thần-túc-thông:  Có hai nghĩa: một là được thần thông tự-tại như ý muốn, hai là trong giây lát muốn đi đâu liền được như ý muốn, không bị sự vật hữu-hình làm chướng ngại. 

Năm phép thần-thông này, tuy có đặc-biệt hơn nhân-loại nhiều, song chưa phải là điểm quan-trọng của sự tu-hành cầu giải-thoát.  Ðiểm quan-trọng nhất của lối tu giải-thoát là “Lậu-tận-thông”.  Lậu-tận-thông là được trí-tuệ thông suốt cả ba đời, không còn bị các phiền-não hữu lậu làm ngăn-ngại, nghĩa là giải-thoát sanh-tử.  Chỉ những vị A-la-hán mới được quả này.

V.                DIỆT - ÐẾ TỨC LÀ NIẾT-BÀN 

Kinh Niết-bàn dạy: “Các phiền-não diệt gọi là Niết-bàn, xa lìa các pháp hữu-vi cũng gọi là Niết-bàn”.           

            Như các đoạn trước của bài này đã nói, đến bốn quả Thánh thì phiền-não nông-cạn và sâu kín đã tuần tự bị tiêu diệt.  Vậy chứng được bốn quả thánh ấy, tức là đã chứng được Niết-bàn.  Nói một cách khác, Diệt-đế tức là Niết-bàn. 

            Niết-bàn hay Niết-bàn-na hay Nê-hoàn là do dịch âm chữ Phạn Nirvana mà ra.  Niết-bàn có nhiều nghĩa như sau: 

-         Niết (Nir) là ra khỏi; Bàn (vana) là rừng mê. 

Niết-bàn là ra khỏi rừng mê. 

-         Niết là chẳng; Bàn là diệt.  Còn phiền-não thì còn dệt ra sanh-tử, không phiền-não thì không còn dệt ra sanh-tử.  Vậy Niết-bàn là không dệt ra sanh-tử luân-hồi. 

Chữ Bàn cũng có nghĩa là không ngăn-ngại.  Niết-bàn còn có nhiều nghĩa nữa, song tóm lại không ngoài ba nghĩa: Bất-sanh, giải-thóat, tịch-diệt. 

Bất-sanh, nghĩa là không sanh ra, không sanh các thứ mê lầm tội-lội. 

Giải-thoát, nghĩa là thoát ra ngoài sự ràng buộc, không mắc vào các huyễn ngã, huyễn pháp. 

Tịch-diệt, nghĩa là vắng-lặng, dứt sạch.  Vắng-lặng, an lành, dứt sạch tất cả nguồn gốc mê lầm. 

Vì lẽ Niết-bàn có nhiều nghĩa như thế, nên trong kinh thường để nguyên âm mà không dịch nghĩa. 

Theo định-nghĩa của chữ Niết-bàn này, thì bốn quả vị trên kia đều gọi là Niết-bàn cả.  Song vì đã hoàn-toàn hay chưa hoàn-toàn mà chia ra làm hai thứ: 

1.      Hữu-dư-y Niết-bàn (Niết-bàn chưa hoàn-toàn). 

Từ quả-vị thứ nhất Tu-đà-hoàn đến quả-vị thứ ba A-na-hàm, tuy đã đoạn trừ tập nhân phiền-não, nhưng chưa tuyệt diệt, tuy đã vắng-lặng an-vui, nhưng chưa viên-mãn.  Sự an-vui chưa hoàn-toàn, vì phiền-não và báo thân còn sót lại, nên gọi là Niết-bàn hữu-du-y.  Vì phiền-não còn sót lại nên phải chịu quả-báo sanh-tử trong năm bảy đời; song ngã-chấp đã phục, nên ở trong sanh-tử mà vẫn được tự-tại, chứ không bị ràng buộc như chúng-sinh. 

2.      Vô-dư-y Niết-bàn (Niết-bàn hoàn-toàn). 

Ðến quả-vị A-la-hán, đã đoạn hết phiền-não, diệt hết câu-sanh ngã chấp, nên hoàn-toàn giải-thoát cả khổ nhân lẫn khổ quả.  Sự sanh-tử không còn buộc ràng bậc này được nữa, nên gọi là Niết-bàn vô-dư-y.  Ðây là quả-vị cao tột của hàng Thanh-văn.  Ðến đây ngọn lửa dục-vọng đã hoàn-toàn tắt hết, và trí vô-ngại hiện ra một cách đầy-đủ, không khi nào còn trở lại khởi tâm chấp ngã nữa.  Vì thế, nên được tự-tại, giải-thoát ngoài vòng ba cõi: Dục, Sắc, và Vô-sắc-giới. 

VI.             NIẾT-BÀN CỦA ÐẠI-THỪA PHẬT GIÁO 

Phật-giáo gồm có Tiểu-thừa và Ðại-thừa mà Niết-bàn là danh-từ chung cho cả hai thừa ấy.  Trên đây đã nói đến Diệt-đế, hay Niết-bàn của Tiểu-thừa, nhưng chưa nói đến Niết-bàn của Ðại-thừa.  Vậy đã nói đén Niết-bàn, thì cũng nên mở rộng phạm-vi, nói luôn cả Niết-bàn của Ðại-thừa, để độc-giả có một quan-niệm đầy đủ về hai chữ Niết-bàn. 

Nói như thế, không có nghĩa là Niết-bàn của Tiểu-thừa và Ðại-thừa là hai loại hoàn toàn khác nhau về tánh chất.  Nếu có khác, thì chỉ khác về phạm-vi rộng-hẹp, rốt-ráo hay chưa rốt-ráo mà thôi; nghĩa là Niết-bàn của Ðại-thừa rộng-rãi hơn có thể gồm cả Niết-bàn của Tiểu-thừa, mà Niết-bàn của Tiểu-thừa không thể gồm cả Niết-bàn của Ðại-thừa.  Các thánh-giả Nhị-thừa (Tiểu-thừa) tuy đã đoạn hết phiền-não, nhưng tập-khí vẫn còn, công-đức trí-tuệ chưa viên-mãn, nên Niết-bàn mà họ chứng, dù là Niết-bàn của hàng A-la-hán đi nữa, đối với Ðại-thừa, cũng chưa hoàn-toàn, nghĩa là còn hữu-dư-y Niết-bàn.  Chỉ có Niết-bàn của chư Phật mới gọi được là vô-dư-y Niết-bàn. 

Ngoài cái nghĩa rộng hẹp trên, Niết-bàn của Ðại-thừa đại khái có hai loại:

1.      Vô-trụ-xứ Niết-bàn. 

Ðây là Niết-bàn của các vị Bồ-tát.  Các vị A-la-hán, do tu nhân giải-thoát mà chứng được quả giải-thoát; nhưng chưa biết nguồn gốc của nhân-quả, còn chấp có thực pháp phải tu, quả-vị phải chứng, nên chưa được hoàn-toàn tự-tại.  Các vị Bồ-tát, trái lại, đã hiểu rõ “tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”, pháp-tánh bình-đẳng như như; không thấy một pháp gì cố-định, một vật gì chắc thật, biệt lập, chỉ thấy chúng là những hình ảnh giả dối, do đối đải với thức tâm, tạo thành bởi thức tâm.  Các vị Bồ-tát không có tâm địa đảo-điên sai lầm, không gán cho sự vật một giá-trị nhứt-định, như tốt, xấu, khổ, vui, nên không sanh ra những thái-độ oán, thân, bỉ thử, ưa ghét.  Hễ còn tri-kiến sai lầm đó, là bị chướng-ngại khổ đau.  Các vị ấy tu-hành chứng theo tự-tánh bình-đẳng, đem tâm hoà đồng cùng sự vật mà làm việc lợi-tha.  Tuy làm việc lợi-tha, mà vẫn ở trong chánh quán.  Quán các pháp như huyễn như hóa, không có thật sanh-tử, không có thật Niết-bàn, không bao giờ trụ-trước (vô-trụ).  Do đó, Bồ-tát thường ra vào sanh-tử lấy pháp lục-độ độ sanh, mà vẫn ở trong Niết-bàn tự-tại. 

2.      Tánh tịnh Niết-bàn. 

Ðây là một thứ Niết-bàn tự tánh, thường vắng-lặng mà thường sáng-suốt, thường sáng-suốt mà thường vắng-lặng, ra ngoài tâm lượng hẹp hòi của phàm-phu và trí-thức hữu hạn của Nhị-thừa ngoại-đạo.  Nó thường bộc-lộ sáng-suốt nơi chư Phật, mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài chúng-sinh.  Trong kinh có khi gọi đó là Phật-tánh, là chơn-tâm, là Như-lai tạng v.v.. 

Nếu chúng-sinh tự tin mình có tánh Niết-bàn thanh-tịnh, và khởi tâm tu-hành theo tự-tánh ấy, tức có thể thành Phật không sai. 

Mang tự-tánh Niết-bàn mà để cho phiền-não cấu trần che lấp, thì làm chúng-sinh trầm-luân trong bể khổ. 

Trái lại, ngộ tự-tánh Niết-bàn mà hết vọng-tưởng mê lầm là thành Phật, có đầy đủ bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh.  “Thường”, nghĩa là không bị chi-phối bởi tánh vô-thường, khi nào cũng như khi nào, không lên bổng xuống trầm, không có già trẻ, chết sống, đổi thay.  “Lạc”, nghĩa là không còn khổ não, lo buồn.  “Ngã”, là được hoàn toàn tự chủ, không bị nội tâm hay ngoại cảnh chi phối.  “Tịnh”, là không ô-nhiễm, luôn luôn thanh-tịnh, trong sáng.  Chúng ta đừng lầm tưởng tánh “Chơn-thường” này với điều thường hằng của thế-gian; tánh “Chơn-lạc” với sự vui thích tương-đối là sự vui thích còn che đậy mầm mống đau khổ bên trong; tánh “Chơn-ngã” với sự tự chủ trong nhất thời, tự chủ ngày nay bị động ngày mai; tánh “Chơn-tịnh” với sự trong sạch tương đối ơ thế-gian, sự trong sạch vật-chất, sự tướng bên ngoài, chứ bên trong vẫn còn nhiễm-ô.

Vì tánh cách quý trọng, cao cả của bốn đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, nên tánh-tịnh Niết-bàn là thứ Niết-bàn cao quý tột đỉnh của đạo Phật, và người Phật-tử Ðại-thừa trong khi tu-hành, đều phát-nguyện rộng lớn, quyết tâm chứng được thứ Niết-bàn ấy mới thôi. 

VII.         BIỆN-MINH VỀ NIẾT-BÀN 

Tánh-cách của Niết-bàn quá rộng-rãi, cảnh-giới của Niết-bàn quá cao thâm, hay gây ra nhiều sự hiểu lầm cho các căn-cơ thiển-bạc, mà tập-quán, thành-kiến, hoàn-cảnh hằng ngày làm chủ trí-thức.  Người đời hay lấy tâm lượng hẹp-hòi của mình để hình-dung Niết-bàn, và đã hình-dung một cách quá sai lạc, nên cuối cùng kết luận rằng cứu-cánh của đạo Phật là một sự không tưởng.  Câu chuyện ngụ-ngôn sau đây chứng minh một cách hùng-hồn tâm trạng ấy: 

Ngày xưa có một con cá, vì nó là loài ở nước, nên dĩ nhiên cuộc đời chỉ sống trong nước, và ngoài nước ra, nó không biết gì hết. 

Một hôm nó đang nhỡn nhơ bơi lội trong hồ, tình cờ gặp một con rùa, mà nó đã quen từ trước, đi du-lịch trên đất liền về.  Nó liền chào: 

-         Chào anh! đã từ lâu tôi không gặp anh.  Vậy xưa rày anh ở đâu? 

-         Ồ, tôi đi du-lịch từ trên đất liền về.  Trên ấy, mặt đất khô ráo quá! 

-         Ðất khô!  Anh nói gì lạ vậy?  Tôi chưa bao giờ thấy nơi nào kỳ lại như vậy.  Lẽ nào lại có đất khô? 

-         Xin thề rằng tôi không nói đùa với anh đâu.  Nhưng nếu quả tình anh không thể tin được thì tùy anh, không ai ngăn cản được anh.  Nhưng dù sao, tôi cũng mới từ đó về. 

-         Này anh, anh hãy cố-gắng diễn-đạt lại cho hợp lý hơn.  Tôi nghi rằng cách diễn-đạt của anh chưa được rõ-ràng lắm.  Anh vui lòng cho tôi biết đất mà anh nói đó có giống như cái gì trong thế-giới chúng ta nào?  Nó có ẩm-ướt không? 

-         Không!  Nó không ẩm-ướt. 

-         Thế nó có mát dịu và lạnh không? 

-         Nó không mát, không dịu mà cũng chẳng lạnh. 

-         Thế nó có trong suốt để cho ánh-sáng xuyên qua được không?

-         Không, nó không trong suốt và ánh-sáng không thể xuyên qua được. 

-         Thế nó có mềm và dễ bị ép để cho tôi có thể quậy vi và đi lại dễ-dàng trong ấy không? 

-         Không, nó không mềm, không bị dồn ép dễ-dàng và trong ấy, anh cũng không thể bơi lội được. 

-         Thế nó có lưu động và đổ thành thác được không? 

-         Không, nó không lưu động và cũng không đổ thành thác được. 

-         Vậy thì nó có dâng lên để tạo thành những mũi sóng bạc đầu được không? 

-         Không, tôi chưa bao giờ thấy nó dâng lên thành làn sóng cả. 

Ðến đây, con cá vênh-váo tự đắc than rằng: 

-         Tôi đã từng nói với anh rằng đất mà anh nói đó là không phải cái gì cả.  Tôi cũng vừa hỏi anh về đất ấy và với câu hỏi nào anh cũng trả lời rằng không.  Ðất anh nói đã là không phải bất cứ cái gì tôi nêu ra, vậy thì đất hẳn là ngoan không.  Anh đừng tìm cách bịp tôi nữa. 

-         Tốt!  Anh đã quả-quyết rằng không có đất liền.  Tôi cũng không có cách nào hơn là cứ để anh tiếp tục tin như anh đã nghĩ.  Nhưng một mai, có ai khác hơn tôi và đủ sức phân biệt cho anh thấy sự sai khác giữa đất và nước, ngày ấy anh sẽ thấy rằng anh chỉ là một con cá ngốc. 

Tâm trạng của con cá này là tâm trạng của một số người thường dựa vào sự hiểu biết nông-cạn của mình, để quan-niệm Niết-bàn.  Có người nghĩ rằng, Niết-bàn là một trạng-thái hư vô tịch-diệt; có người nghĩ rằng Niết-bàn là cảnh Thiên-đường như của ngoại đạo; có người lại bảo nếu Niết-bàn không phải là hư-vô tịch-diệt mà cũng không phải là Thiên-đường, thì Niết-bàn là một không-tưởng. 

Niết-bàn không thể là một trạng-thái hư-vô tịch-diệt được.  Tam-tạng giáo-điển chưa bao giời nói đến cảnh-giới hư-vô ấy.  Sự hiểu lầm Niết-bàn với hư-vô là con đẻ của sự nghiên-cứu thô-thiển, nông-cạn qua các định-nghĩa của Niết-bàn.  Nghe nói Niết-bàn tức là “Diệt”, người ta vội tưởng ngay “Diệt” nghĩa là hoại-diệt, không có gì tồn-tại cả.  Người ta không ngờ rằng “Diệt” ở đây, có nghĩa là diệt nguồn gốc đau-khổ, phiền-não, mê-lầm.  Mà khi đau khổ diệt thì an vui tất phải phát sinh, mê lầm diệt thì sáng-suốt tất tỏ lộ. 

Như trên đã trình-bày, Niết-bàn có đủ diệu-dụng: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thì sao gọi là hư-vô được? 

Niết-bàn của Phật cũng không phải là một cảnh thiên-đường như người đời và các ngoại-đạo thường ca tụng.  Nguyên-nhân của sự hiểu lầm này là do tập-quán xem Phật-giáo cũng như các “thần đạo” khác.  Trước khi Phật giáng-thế, trong kinh Vệ-đà (Véda) của ngoại-đạo Ấn-độ, cũng từng dùng danh-từ Niết-bàn với nhiều định-nghĩa khác nhau, tùy theo trình-độ hiểu biết cao thấp của họ.  Có đạo cho chết rồi mất hẳn là Niết-bàn; có đạo cho cõi trời của Dục-giới là Niết-bàn; có đạo cho chứng được tánh không tham ái ở cõi Sơ-thiền là Niết-bàn; có đạo cho các định cảnh Không vô biên xứ, Phi phi tưởng xứ ở cõi trời Vô-sắc là Niết-bàn. 

Nhưng, với đạo Phật thì những nơi ấy còn ở trong vòng tam giới luân-hồi.  Bởi ở đó chưa diệt được hết lòng chấp ngã, chấp pháp, còn sống chết theo vọng-tưởng sanh diệt, chứ chưa được rốt-ráo như Niết-bàn của Phật. 

Nói một cách tóm-tắt dễ hiểu, Niết-bàn của đạo Phật là sự thể nhập vào bản-thể sáng-suốt, thanh-tịnh, đầy đủ các đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.  Bản thể ấy không phải chết lặng mà là sống động, cớ đầy đủ công-năng, một sự sống động trong vắng-lặng, mà kinh thường gọi là “vắng mà thường soi, soi mà thường vắng” (tịch nhi thường chiếu, chiếu chi thường tịch). 

Một học-giả Tây-phương, rất thông hiểu về đạo học Ðông-phương, ông Ram Linsen đã viết trong quyển Le Destin du XX siècle (vận-mệnh của thế-kỷ hai mươi) như sau về Niết-bàn: “Niết-bàn không phải tịch nhiên bất động, cũng không phải là cái trống không, là cái chết mất vô tông vô tích.  Niết-bàn là sự thực-chứng cái bản-thể của vũ-trụ.  Không thực thứng được cái bản-thể đó là người còn thiếu sót, là sống một đời sống mất quân-bình giữa xác thịt và tâm-linh.  Niết-bàn không phải là ngoài cái động.  Và chính Niết-bàn mới là nguồn gốc của những việc làm chân-chính.  Ðây là một sự thật, nhất là đối với Ðại-thừa Phật-giáo”. 

Như thế, Niết-bàn không phải là một lối không-tưởng, viển-vông không thực-hiện được.  Miễn là tự tin mình có tánh Niết-bàn và cố-gắng tập sống theo tự tánh ấy, thì Niết-bàn là một kết-quả rất thiết-thực.  Mê-muội không tự tin mình có tánh Niết-bàn là chúng-sinh; tự tin mình có tánh Niết-bàn và làm phát-triển tánh ấy là Thánh-giả.  Ðể cho phiền-não tham, sân, si, vô-minh chấp ngã làm chủ, là luân-hồi.  Gạn lọc cáu bẩn phiền-não vô-minh nơi tâm thức cho hết sạch, như gạn bỏ bùn nhơ nơi nước, cho đến khi bát nước hoàn-toàn trong suốt, ấy là Niết-bàn hiển hiện. 

VIII.      MỘT MẪU CHUYỆN VỀ NIẾT-BÀN 

Ðể chứng-minh tánh cách triền-phược của phiền-nào và giải-thoát của Niết-bàn trên đây, trong kinh Samitha Nikaya (Tạp A-hàm) Phật kể một mẫu chuyện như sau: 

Có một tên trộm bị người ta bắt đem nạp cho nhà vua.  Muốn giam giữ nó, nhà vua ra lệnh dở nấp rương thả ra bốn con rắng độc.  Con thứ nhất quấn lấy tay mặt tội nhân; con thứ hai quấn lấy tay trái tội nhân; con thứ ba quấn ngang hông và con thứ tư quấn quanh cổ nó. 

Một người đức-hạnh đến gần tội nhân, thấy rõ tình cảnh, liền nói rằng: - Ngươi đã bị người ta giữ-gìn cẩn-thận, vậy hãy đứng yên, chớ nên cựa quậy mà bị rắn cắn.  Nọc con rắn thứ nhất se làm cho thân ngươi cứng đơ như đá, nọc con rắn thứ hai sẽ làm cho thân ngươi tiêu ra như nước, nọc con rắn thứ ba sẽ làm cho thân ngươi tan ra như bột và bị gió cuốn đi, nọc con rắn thứ tư sẽ đốt ngươi cháy như ngọn lửa. 

Tên trộm trả lời: 

-         Không phải!  Những con rắn ấy đều là đồ trang-sức của tôi.  Ðây là đôi vòng của tôi, đây là sợi dây chuyền cổ và đây là sợi dây lưng. 

Người đức-hạnh lại dạy nó từ từ gỡ bốn rắn ấy, đem bỏ vào trong rương, đậy nắp lại, rồi mau mau chạy trốn. 

Nó làm theo. 

Hay tin, nhà vua liền truyền lệnh cho năm tên lính đuổi theo bắt tên trộm. 

Nó ráng chạy được một đỗi, lại gặp người đức-hạnh khi nãy hô to: 

-         Ngươi hãy chạy thật mau lên!  Có năm tên lính đang đuổi theo sau lưng kìa!  Chúng lại thả ra bốn con rắn độc để rượt bắt ngươi đấy. 

Khi đã đuối sức, tên trộm liền dừng chân lại, và thấy phía trước có sáu cái nhà bỏ trống, vừa vị sáu tên cướp vào vét sạch của-cải. 

Sáu tên cướp lại nhập đoàn với năm tên lính để đuổi bắt nó. 

Người đức-hạnh lại hô to lên nữa: 

-         Ngươi rán chạy mau lên!  Bọn cướp và lính nhà vua sắp đến nơi.  Chúng lại bắt thêm một người bạn thân của ngươi để dụ ngươi trở về trị tội.

Nhưng chạy được một đỗi, tội nhân lại gặp một cái biển ngay trước mặt, nên phải dừng chân lại.  Nó hết sứ lo-âu, vì tại đây không có ghe thuyền chi để thoát thân cả. 

Người đức-hạnh dạy nó lấy tám cành cây khô, kết lại thành bè, để bơi đi trốn. 

Làm bè xong, nói bơi ra được một đỗi thì gặp một hòn cù-lao.  Nó định ghé lên, nhưng dòm ngoái lại phía sau, thấy quân-lính vẫn còn đuổi nà theo.  Nó cố sức bơi đến một cù-lao thứ nhì, rồi thứ ba và thứ tư.  Nhân-dân ở tại chỗ đó liền tôn nó lên làm vua.  Lúc ấy, đoàn người đuổi theo sau nó đều bị tiêu-diệt và nó không còn thấy hình bóng đâu nữa! 

Nhà vua ám-chỉ cái nghiệp, tên trộm ám-chỉ người đi tìm đạo, người đức-hạnh ám-chỉ ông Thầy dạy đạo, bốn con rắn độc ám-chỉ tứ-đại, năm tên lính ám-chỉ ngũ-uẩn, sáu cái nhà bỏ trống ám-chỉ sáu trần, tám cành cây kết lại thành bè ám-chỉ bát-chánh-đạo.  Bốn cù-lao bốn bực thiền-định hay bốn quả Thánh, lê tôn vương ám-chỉ sự giải-thoát.  Sự tiêu diệt của đoàn người đuổi theo sau ám-chỉ sự tan-biến của màn vô-minh và sự bẽ gãy bánh xe luân-hồi. 

Mẫu chuyện trên này ngụ ý rằng: kẻ phàm-phu bị màn vô-minh che-lấp, đắm mê theo vật-dục, nhận khổ làm vui, nhận xấu làm tốt, khác gì kẻ trộm nhận rắn độc làm đồ trang-sức.  Nếu nó không nhờ nhà tu-hành đức-hạnh dạy-bảo, thì đâu biết mình đang bị rắn độc bao vây để chạy thoát, và đâu có gắng sức dẻo-dai để bước lên bờ giải-thoát. 

Chúng-sinh khi còn mê-lầm, gây nên tội-lỗi, thì giờ phút nào cũng bị cầm tù trong đau khổ, bị trói-buộc vì nghiệp nhân.  Nhưng đến khi bước lên bờ giải-thoát, được tự-tại thì chẳng khác gì một vị chúa-tể. 

Bốn cù-lao mà tên trộm đến trong câu chuyện này, chỉ mới có nghĩa là bốn quả Thánh của hàng Nhị-thừa, chưa phải là thứ Niết-bào rốt-ráo, hoàn-toàn của chư Phật; nhưng dù sao câu chuyện trên cũng cho chúng ta một ý-niệm thô-thiển về sự tiến-triển của kẻ tu-hành đi từ cảnh-giới đau-khổ, phiền-não là cảnh-giới Ta-bà này, đến trạng-thái Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là Niết-bàn. 

C.  KẾT-LUẬN 

            Nói tóm lại, Diệt-đế tức là chân-lý chắc thật nói về quả-vị mà một kẻ tu-hành có thể chứng được.  Quả-vị ấy tức là Niết-bàn. 

            Nhưng vì sự tu-hành có thấp có cao, có rộng có hẹp, nên quả chứng, tức Niết-bàn, cũng có thấp, có cao, chưa hoàn-toàn.

            Ðối với hàng Tiểu-thừa, thì ba quả đầu: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, là thuộc về Hữu-dư-y Niết-bàn, vì phiền-não chưa hoàn-toàn tuyệt-diệt.  Chỉ đến quả vị A-la-hán là quả-vị mà mọi phiền-não đã tuyệt diệt, mới thuộc về Vô-dư-y Niết-bàn. 

            So với Ðại-thừa, thì Niết-bàn của A-la-hán cũng còn là Hữu-dư-y Niết-bàn, vì các vị A-la-hán mặc dù phiền-não đã dứt sạch, ngã-chấp đã hết, nhưng pháp-chấp hãy còn, còn thấy có pháp mình tu, có Niết-bàn mình chứng, nên chưa có thể gọi được là Vô-dư-y Niết-bàn.  Chỉ có Niết-bàn của Ðại-thừa mới gọi là Vô-dư-y Niết-bàn, vì ở đây đã dứt sạch ngã-chấp, pháp-chấp, không còn thấy có pháp mình tu, Niết-bàn mình chứng. 

            Niết-bàn của Ðại-thừa có hai loại: Vô-trụ-xứ Niết-bàn của các vị Bồ-tát, và Tánh-tịnh Niết-bàn là chân-tánh bản lai thanh-tịnh và sáng-suốt của vũ-trụ, mà các đức Phật đã thể chứng. 

            Trên đây kể sơ qua các loại Niết-bàn, là các quả vị của Diệt-đế.  Niết-bàn mà chúng tôi diễn-tả bằng văn-tự ở đây so với Niết-bàn thật, còn xa cách muôn trùng.  Nhưng với hoàn-cảnh hiện-tại của chúng ta, không có phương-tiện nào khác hơn, để trình-bày và tìm-hiểu Niết-bàn, thì đành phải dùng văn-tự vậy. 

            Muốn thấy được Niết-bàn thật, phải tự mình thân chứng, phải thể-nhập Niết-bàn.  Muốn thân chứng, thể nhập Niết-bàn, cần phải tu theo phương-pháp mà đức Phật đã dạy trong phần Ðạo-đế, là phần mà chúng tôi sẽ trình-bày trong những bài sau đây.        

HT. Thích Thiện Hoa
Quay lại In bản tin này Gửi tin này cho bạn bè  
 BÀI HỌC KẾ TIẾP
(Phật Học Phổ Thông Khóa thứ III )
ÐẠO ÐẾ (TỨ NIỆM XỨ)
 CÁC BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ
 

Xem tin ngày:


Trang Chủ | Lịch Sinh Hoạt | Hình Ảnh | Âm Nhạc | Trắc Nghiệm |  Xem Phim | Liên Kết |  Liên Hệ
Liên hệ kimcangtuvien@yahoo.com
4771 Browns Mill Road Lithonia Georgia 30038-2604 Tel:(770) 322-0712